春宵旅次 - 阮攸 Xuân Tiêu Lữ Thứ
- Nguyễn Du
蕭蕭蓬鬢老風塵,Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần,
暗裡偏驚物候新。Ám lý thiên kinh vật hậu tân.
池草未闌千里夢, Trì thảo vị lan thiên lý mộng,
庭梅已換一年春。 Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân.
英雄心事荒馳騁, Anh hùng tâm sự hoang trì sính,
名利營場累笑顰。 Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần.
人自蕭條春自好, Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo,
團城城下一沾巾。 Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân.
Chú Thích
1- Lữ
thứ 旅次 = Đi xa, tạm dừng chân hay ngụ qua đêm ở nơi nào
đó
2- Tiêu tiêu 蕭蕭 = có nhiều nghĩa : 1.Hình dung âm thanh như tiếng ngựa hí, tiếng gió thổi…; 2.Tiêu điều; 3.Lạnh lẽo; 4.Lơ thơ, lưa thưa ví dụ như: Bạch phát tiêu tiêu kim dĩ lão 白髮萧萧今已老 = tóc bạc lơ thơ nay đã gìa rồi; 5.Giản lậu; 6.Tiêu sái.)
3- Bồng mấn 蓬鬢 = tóc rối bời như cỏ bồng
4- Ám lý 暗裡 = âm thầm trong lòng, in one's heart; Thiên 偏 = cách ngoại 格外 = đặc biệt especially,extreme, particularly, extra;
5- Vật hậu 物候 = cảnh vật do thời tiết.
(Lấy chữ từ câu thơ của Đỗ Thẩm Ngôn 杜審言 , đời Đường:
"Độc hữu hoạn du nhân, Thiên kinh vật hậu tân."
"獨有宦遊人,偏驚物候新."
Nghĩa là chỉ có người lìa bỏ quê hương, đi làm quan ở xa mới mẫn cảm trước sự thay đổi cảnh vật do thời tiết mà kinh ngạc, cảm thán. Ý nói nhớ quê hương, nhớ nhà.
6-
Trì thảo mộng 池草夢 = giấc mộng cỏ bờ ao; Vị lan 未闌 = chưa hết
(Do
chuyện Tạ Linh Vận 謝靈運 đời Tấn,
làm thơ rất nổi tiếng. Một hôm ở xa nhà, ông nghĩ mãi 1 câu thơ không ra.
Tối nằm mơ thấy người em họ ở quê là Tạ Huệ Liên 謝惠連 . Sáng ra ông nghĩ được
1 câu thơ rất đắc ý: Trì đường sinh xuân thảo 池塘生春草 = Bờ ao sinh ra cỏ
mùa xuân. Từ đó có điển tích “Trì thảo mộng” ý nói người ở xa quê
thì nhớ nhà.)
7-
Hoán nhất niên xuân = đổi 1 mùa xuân của năm = chỉ thời gian đi nhanh; Mai = giống
hoa nở vào mùa xuân; đìmh mai = cây mai trong sân nhà.
Giới văn chương ngày xưa thường đặt tên cho một số chữ như:
*Chữ thảo 草 còn gọi là vương tôn 王孙,
*Chữ nguyệt 月còn gọi là vọng thư 望舒,
*Sơn thủy 山水 còn gọi là thanh huy 清暉,
*Chữ mai 梅 còn gọi là dịch sứ 驛使,
(Do điển tích Lục Khải và Phạm Diệp đời Nam Bắc Triều chơi thân với nhau. Lục Khải có làm 1 bài thơ tên là “Tặng Phạm Diệp 贈范曄”:
Giới văn chương ngày xưa thường đặt tên cho một số chữ như:
*Chữ thảo 草 còn gọi là vương tôn 王孙,
*Chữ nguyệt 月còn gọi là vọng thư 望舒,
*Sơn thủy 山水 còn gọi là thanh huy 清暉,
*Chữ mai 梅 còn gọi là dịch sứ 驛使,
(Do điển tích Lục Khải và Phạm Diệp đời Nam Bắc Triều chơi thân với nhau. Lục Khải có làm 1 bài thơ tên là “Tặng Phạm Diệp 贈范曄”:
折梅逢驛使,寄與隴頭人。江南無所有,聊贈一枝春。
Chiếi
mai phùng dịch sứ = bẻ cành mai gặp người đưa thư.
Ký dữ Lũng Đầu nhân = gửi cho người ở Lũng Đầu.
Giang
Nam vô sở hữu = Giang Nam không có gì cả.
Liêu tặng nhất chi xuân = Tạm tặng 1 cành xuân.
Từ đó có thành ngữ “Dịch sứ mai hoa 驛使梅花” nói lên sự quan thiết giữa 2 người bạn thân. Dịch sứ có nghĩa là người đưa thư,
ngày xưa từ Triều đình sai người đem thư tín công văn đến các địa phương.)
(Phải chăng cụ Nguyễn Du muốn dùng câu thơ này để ám chỉ việc cụ đến Lạng Sơn tiếp đón “dịch sứ”, thoáng qua đã được 1 năm?)
(Phải chăng cụ Nguyễn Du muốn dùng câu thơ này để ám chỉ việc cụ đến Lạng Sơn tiếp đón “dịch sứ”, thoáng qua đã được 1 năm?)
8- Hoang 荒 = hoang dã, hoang đường, bỏ như hoang khóa = bỏ học.
9- Trì sính 馳騁 = phi ngựa
(Anh hùng tâm sự hoang trì sính=Phỏng
theo câu thơ của Trương Giai Dận (Dẫn) 張佳胤 , đời Minh :
Anh hùng tâm sự vô kim cổ 英 雄 心 事 無 今 古= Tâm sự của người anh hùng tử cổ đến nay đều như nhau)
Anh hùng tâm sự vô kim cổ 英 雄 心 事 無 今 古= Tâm sự của người anh hùng tử cổ đến nay đều như nhau)
10-
Doanh 營: Làm việc điều hành, quản lý như doanh nghiệp, kinh doanh.
Chữ doanh còn nhiều nghĩa khác như:1- Chỗ đóng quân, trại lính. 2- một tiểu đoàn bộ binh thời xưa. 3- Kiến thiết như doanh tạo. 4- Chất bổ cho sinh vật như doanh dưỡng 營养 . 5- Cắm trại như lộ doanh露營, lộ doanh trường 露營場 = nơi cắm trại camping area, doanh hỏa 營火= đốt lửa trại…
Chữ doanh còn nhiều nghĩa khác như:1- Chỗ đóng quân, trại lính. 2- một tiểu đoàn bộ binh thời xưa. 3- Kiến thiết như doanh tạo. 4- Chất bổ cho sinh vật như doanh dưỡng 營养 . 5- Cắm trại như lộ doanh露營, lộ doanh trường 露營場 = nơi cắm trại camping area, doanh hỏa 營火= đốt lửa trại…
11- Lũy 累 = chồng chất, tích tụ; Một âm là lụy = dính dấp tới, liên lụy, phụ đảm.…;
12- Tần 顰 = nhăn mày
13-
Đoàn Thành = thành Lạng Sơn.
Dịch
Nghĩa
Bài
thơ Đêm Xuân Lữ Thứ của Nguyễn Du
Mái
tóc rối lơ thơ phong trần mãi,
Âm
thầm kinh ngạc trước thời tiết thay đổi mới.
Ngoài
nghìn dặm chưa tan giấc mộng "cỏ bờ ao",
Cây
mai trong sân nhà lại qua một mùa xuân nữa.
Lòng
người anh hùng không còn nghĩ đến chuyện ruổi rong,
Con
đường lo toan việc danh lợi sẽ chồng chất sự cười, nhăn (hoặc là sẽ dính dấp
tới sự cười nhăn.)
Người
thì tiều tuỵ, xuân vẫn tươi đẹp,
Đứng
dưới Đoàn Thành, nước mắt đẫm khăn.
Phỏng Dịch
Đêm
Xuân Lữ Thứ
Lơ
thơ tóc rối bước phong trần,
Cảnh
vật đổi thay lòng cảm than.
Nghìn
dặm chưa tan trì thảo mộng,
Một
năm đã đổi đình mai xuân.
Anh
hùng lòng dạ thôi rong ruổi,
Danh
lợi lo toan lụy tấm thân.
Tiều
tụy vóc người xuân vẫn đẹp,
Lệ
rơi khăn ướt dưới thành Đoàn.
HHD
Cõi Lạ Đêm Xuân
Phong trần tóc rối sợi lơ thơ
Cảnh vật đổi thay dạ thẫn thờ
Ngàn dậm trông về ao cỏ mướt
Một năm thay đổi gốc xuân mơ
Anh hùng rũ bỏ thôi rong ruổi
Danh lợi lo toan kiếp vật vờ
Tiều tụy hình hài, xuân vẫn đẹp
Thành Đoàn khăn đẫm lệ như mưa
Lộc Bắc Mar2015
Xuân Lữ Thứ
Tóc rối bước phong trần
Cảnh đời, dạ bâng khuâng
Xa xôi, còn ôm mộng
Mai nhà nở thêm xuân
Anh hùng lòng ngán ngẩm
Danh lợi thêm hại thân
Người buồn xuân vẫn đẹp
Nhìn hoa nước mắt tràn
Lê Thị Bạch Nga Avril2015
Xuân tiêu lữ thứ
Lơ thơ tóc rối trải phong trần
Lơ thơ tóc rối trải phong trần
Hoa cỏ thay màu lại đến xưân
Nhớ nhà mộng cỏ bên ao mọc
Thương bạn cành mai gởi cố nhân
Gác chuyện ngựa phi ngoài hoang dã
Đoạn trường tươi héo mặc cho thân
Tiều tụy hình dung xuân chẳng biết
Đoàn thành lệ ướt thấm vào khăn
Thanh Lam (11-04-15 )
No comments:
Post a Comment