長相思 - 李白 Trường Tương Tư
- Lý Bạch
其一
長相思,在長安。 Trường tương
tư, tại Trường An.
絡緯秋啼金井闌, Lạc vĩ
thu đề kim tỉnh lan,
微霜悽悽簟色寒。 Vi sương
thê thê điệm sắc hàn.
孤燈不明思欲絕, Cô đăng bất
minh tứ dục tuyệt,
卷帷望月空長嘆。 Quyển duy
vọng nguyệt không trường thán.
美人如花隔雲端。 Mỹ nhân
như hoa cách vân đoan.
上有青冥之高天, Thượng hữu
thanh minh chi cao thiên,
下有淥水之波瀾。 Hạ hữu lục
thủy chi ba lan.
天長路遠魂飛苦, Thiên trường
lộ viễn hồn phi khổ,
夢魂不到關山難。 Mộng hồn
bất đáo quan sơn nan.
長相思,摧心肝。 Trường tương
tư, tồi tâm can.
其二
日色慾盡花含煙, Nhật sắc
dục tận hoa hàm yên,
月明欲素愁不眠。 Nguyệt
minh dục tố sầu bất miên.
趙瑟初停鳳凰柱, Triệu sắt
sơ đình phụng hoàng trụ,
蜀琴欲奏鴛鴦弦。 Thục cầm
dục tấu uyên ương huyền.
此曲有意無人傳, Thử khúc
hữu ý vô nhân truyền,
願隨春風寄燕然。 Nguyện tùy
xuân phong ký Yên Nhiên.
憶君迢迢隔青天。 Ức quân điều
điều cách thanh thiên.
昔時橫波目, Tích
thời hoành ba mục,
今作流淚泉。 Kim
tác lưu lệ tuyền.
不信妾腸斷, Bất
tín thiếp trường đoạn,
歸來看取明鏡前。 Quy lai
khan thủ minh kính tiền.
其三
美人在時花滿堂, Mỹ nhân tại
thời hoa mãn đường,
美人去後空餘牀。 Mỹ nhân
khứ hậu không dư sàng.
牀中繡被卷不寢, Sàng
trung tú bị quyển bất tẩm,
至今三載聞餘香。 Chí kim
tam tải văn dư hương.
香亦竟不滅, Hương
diệc cánh bất giảm,
人亦竟不來。 Nhân
diệc cánh bất lai.
相思黃葉落, Tương
tư hoàng diệp lạc,
白露溼青苔。 Bạch
lộ thấp thanh đài.
Chú
Thích
1-
Trường tương tư 長相思: tương tư dài mãi.
2-
Lạc vĩ 絡緯: con sạt sành
3-
Kim tỉnh lan 金井闌: hàng rào rất tinh tế ở quanh miệng giếng.
4- Điệm簟: còn đọc là đạm, điễm: chiếu đan bằng trúc, mây.
5- Vân đoan 雲端 = vân trung 雲中, vân nộ i雲內, vân tế 雲際 = trong mây, trong
tầng mây.
6- Thanh minh 青冥: trời xanh thăm thẳm.
7- Lục 淥: trong vắt.
8- Quan sơn 關山: quan ải 關隘 và sơn phong 山峰, ý nói đường xá xa xôi. Quan sơn nan 關山難: đường xá xa xôi cách trở
khó đi.
9- Dục tố 欲素= muốn như lụa trắng nõn, bản khác chép “Như tố如素= như lụa trắng nõn”.
10- Bất miên 不眠: không ngủ. bản khác chép “Bất minh 不明=không sáng” hay “Bất mỵ 不寐=không
ngủ”.
11- Triệu sắt 趙瑟: người nước Triệu gẩy đàn sắt hay vì vậy văn chương
thường dùng chữ Triệu sắt để chỉ cây đàn sắt tương tự như cây đàn tranh.
12- Phụng hoàng trụ: cái trụ
dùng để căng dây đàn sắt có trạm hình con chim phụng hoàng.
13- Thục cầm 蜀琴: văn chương dùng chữ Thục cầm (đàn đất Thục) để chỉ
đàn tốt. Có lẽ vì điển tíchTư Mã Tương Như người nước Thục, chơi đàn cầm rất
hay.
14- Yên Nhiên 燕然: núi Yên Nhiên, Mông Cổ. Câu này ám chỉ nơi xa xôi ở
phương bắc.
15- Hoành ba 橫波: ám chỉ con mắt mỹ nhân.
16- Không dư sàng 空餘牀= cái giường thừa để không, bản khác chép dư không sàng 餘空牀= còn dư lại cái giường không, hay hoa dư sàng 花餘牀=hoa (hết) cái giường dư thừa.
17- Quyển bất tẩm 卷不寢= cuốn lại không (dùng khi) ngủ.
18- Văn dư 聞餘: ngửi thấy (hương) thừa còn lại, bản khác chép “Do
văn 猶聞=còn ngửi thấy”
19- Lạc 落: rơi rụng, bản khác chép “Tận 盡=hết”
20-Diệc 亦 = cũng; Cánh 竟: càng, thật sự
(actually, indeed)
21- Thấp 溼: ẩm ướt, bản
khác chép “Điểm 點=đốm, điểm”.
Dịch Nghĩa
Nhớ nhau mãi của Lý Bạch
Kỳ 1
Nhớ nhung mãi, (người bạn ở)
tại Trường An,
Tại lan can tinh tế quanh giếng,
con giọt sành kêu trong mùa thu.
Chiếu trúc đượm sắc lạnh, nhẹ
phủ làn sương buồn bã.
Một cây đèn mờ, tư tưởng như
muốn hết sạch.
Cuốn rèm nhìn trăng trên không
thở dài.
Người đẹp như hoa cách tầng mây.
Trên có trời cao xanh thăm thẳm,
Dưới có sóng nước trong.
Trời cao dài, đường xa hồn phách
bay khổ sở,
Mộng hồn không đến được vì
quan ải sơn phong gian nan.
Nhớ nhung mãi, (đau kgổ) suy
tàn tâm can.
Kỳ 2
Ngày sắp hết hoa như phủ làn
khói,
Trăng sáng như lụa buồn không
ngủ.
Cây đàn Triệu sắt mới ngừng (không còn lay động) nhữnh
cây trụ phụng hoàng,
Cây đàn Thục cầm lại muốn gẩy
những dây uyên ương.
Khúc nhạc này có ý nhung không
ai truyền nó đi,
Đản nguyện nó sẽ theo gió xuân
gửi tới Yên Nhiên.
Nhớ anh cách trời xanh thăm
thẳm.
Ngày xưa (ánh) mắt (như) sóng
ngang,
Ngày nay nước mắt chẩy thành
suối.
Không tin thiếp (buồn) đứt ruột,
Hãy về xem (thiếp) lấy gương
sáng (soi dung nhan tiều tụy).
Kỳ 3
Lúc người đẹp còn, hoa đầy nhà,
Lúc người đẹp đi rồi hoa cái
giường dư thừa trống không(chỉ còn lại cái giường không).
Giữa giường cái chăn thêu cuốn
lại không (dùng đắp khi) ngủ,
Đến nay 3 năm còn nghe mùi hương.
Hương cũng không hết,
Người cũng không về.
Nhớ nhung lá vàng rơi,
Sương trắng thấm ẩm rêu xanh.
Phỏng Dịch
Trường Tương Tư
(1)
Nhớ nhung nhau mãi chốn Trường
An,
Dế khóc mùa thu cạnh giếng
vàng.
Chiếu phủ hơi sương lạnh ảm đạm,
Đèn mờ thoi thóp ý suy tàn.
Rèm cuốn nhìn trăng buông tiếng
than,
Mỹ nhân hoa sắc cách mây ngàn.
Trên trời cao thẳm mầu xanh
biếc,
Dưới nước trong veo đợt sóng tràn.
Xa cách khung trời đường diệu
vợi,
Phách hồn bay bổng mấy gian
nan.
Quan ải sơn xuyên không đến mộng,
Tương tư dài mãi nát tim gan.
*
* *
(2)
Ngày đã dần phai sắc,
Cánh hoa đượm khói lan.
Ánh trăng như lụa trắng,
Không ngủ buồn miên man.
Trụ phụng hoàng vừa ngưng Triệu
sắt,
Thục cầm lại trổi uyên ương
huyền.
Khúc đẹp ý, không ai gửi giúp,
Gió xuân nguyện thổi đến Yên
Nhiên
Nhớ chàng trong cách biệt,
Thăm thẳm khung trời xanh.
Sóng thu xưa mắt biếc,
Nay suối lệ long lanh.
Không tin thiếp đoạn trường?
Xem thiếp lúc soi gương.
*
* *
(3)
Mỹ nhân còn đó hoa đầy nhà,
Giường để trống không, người
vắng xa.
Chăn thêu cuốn lại không người
đắp,
Thoang thoảng hương thừa năm
tháng qua.
Hương xưa không hề phai,
Người đi không trở lại.
Tương tư lá vàng bay,
Sương trắng ướt thanh đài.
HHD 01-2018
No comments:
Post a Comment