拜星月 - 周邦彥 Bái Tinh Nguyệt
– Chu Bang Ngạn
高平秋思 Cao Bình Thu Tứ
夜色催更, Dạ
sắc thôi canh,
清塵收露, Thanh
trần thu lộ,
小曲幽坊月暗。 Tiểu khúc u phường nguyệt ám.
竹檻燈窗, Trúc
hạm đăng song,
識秋娘庭院。 Thức Thu nương đình viện.
笑相遇, Tiếu
tương ngộ,
似覺,瓊枝玉樹相倚, Tự giác, quỳnh chi ngọc thụ tương ỷ,
暖日明霞光爛。 Noãn nhật minh hà quang lạn.
水眄蘭情, Thủy
miện lan tình,
總平生稀見。 Tổng bình sinh hy kiến.
畫圖中、舊識春風面。Họa đồ
trung, cựu thức xuân phong diện.
誰知道、自到瑤台畔。Thùy tri đạo,
tự đáo Dao đài bạn.
眷戀雨潤雲溫, Quyến
luyến vũ nhuận vân ôn,
苦驚風吹散。 Khổ kinh
phong xuy tán.
念荒寒、寄宿無人館。Niệm hoang
hàn, ký túc vô nhân quán.
重門閉、敗壁秋蟲嘆。Trùng môn
bế, bại bích thu trùng thán.
怎奈向、一縷相思, Chẩm nại
hướng, nhất lũ tương tư,
隔溪山不斷。 Cách khê sơn bất đoạn.
Chú Thích
1- Bái tinh nguyệt 拜星月: tên từ bài, nguyên là khúc hát của Đường giáo phường,
sau dùng làm tên từ điệu. Tên khác là “Bái tinh nguyệt mạn 拜星月慢”. Bài này có 104 chữ, trắc
vận. Cách luật:
T T B B cú
X B X T cú
X T B B X T vận
T T B B cú
T B B B T vận
T B T cú
T T, B B T T B T cú
T T X B B T vận
X T X B cú
T B B B T vận
T B B, T T B B T vận
X B X, T T B B T vận
X T T X B X cú
T B B B T vận
T B B, T T B B T vận
B B T, X T B B T vận
X X T, X T B B cú
T B B T T vận
B: bình thanh; T: trắc thanh;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Cao Bình thu tứ 高平秋思: ý thu ở thỉ trấn Cao Bình.
3- Thôi canh 催更: thôi xúc, thúc giục. Dạ sắc thôi canh: sắc đêm đã về
khuya.
4- Thanh trần 清塵: làm sạch bụi.
5- Thu lộ 收露: tiếp nhận những giọt sương thu, giọt móc.
6- U phường 幽坊: khu ở sâu kín.
7- Trúc hạm 竹檻: lan can bằng trúc.
8- Thu nương 秋娘: tiếng phổ thông gọi ca kỹ thời bấy giờ.
9- Quỳnh chi ngọc thụ 瓊枝玉樹: cành quỳnh cây ngọc, chỉ người đẹp.
10- Quang lạn 光爛: sáng láng.
11- Miện 眄: nhìn, liếc, nhìn liếc, bản khác chép “Phán 盼: trông, nhìn”. Thủy miện lan tình 水眄蘭情: mắt liếc như thu thủy, hương tình như hoa lan.
12- Bình sinh 平生: trong đời, suốt đời.
13- Họa đồ trung 畫圖中: trong hình vẽ.
14- Xuân phong diện 春風面: ý nói dung mạo mỹ lệ.
15- Dao đài 瑤台: nơi tiên ở. Tác giả mượn để chỉ chỗ ở của nàng ta.
16- Vũ nhuận vân ôn 雨潤雲溫: mưa trơn mây ấm, chỉ đôi nhân tình nam nữ hòa hợp.
17- Kinh phong 驚風: trận gió kinh sợ.
18- Hoang hàn 荒寒: hoang lương hàn lãnh 荒涼寒冷: hoang vắng lạnh lẽo.
19- Ký túc 寄宿: tạm trú.
20- Vô nhân quán 無人館: quán vắng, không người khách ở.
21- Bại bích 敗壁: vách tường mục nát.
22- Thu trùng 秋蟲: chỉ con dế mèn sống trong khe nứt của vách tường.
23- Chẩm nại hướng 怎奈向: làm sao? Làm cách nào? Chữ hướng dùng làm trợ từ.
24- Nhất lũ 一縷: một sợi tơ.
25- Khê sơn 溪山: sông núi.
Dịch Nghĩa
Mầu đêm đã khuya như thúc giục
trời sáng,
Làm sạch bụi bặm, tiếp nhận
những giọt sương thu,
Một đoạn ngõ sâu kín, ánh trăng
mờ ám.
Lan can làm bằng trúc, có đèn
sáng ở cửa sổ,
Biết đến nhà vườn của nàng ca
nhi.
Vui cười gặp gỡ,
Tự cảm thấy cô ta như cành quỳnh
cây ngọc thân cận kề vai,
Như mặt trời ấm áp, như mây mầu
sáng láng.
Đôi mắt nhìn như sóng nước mùa
thu, hương tình như hoa lan.
Thật là trong đời hiếm gặp.
Từ trước chỉ thấy trong hình
vẽ, bộ mặt mỹ lệ tuyệt trần.
Nào ai hay, tự mình đã đến bên
bờ tiên cảnh.
Hai bên quyến luyến tình ý hòa
hợp,
Khổ là một trận gió kinh sợ đã
thổi tan (mối tình đẹp).
Nghĩ mình đang ở nơi hoang vu
lạnh lẽo, tạm trú nơi quán vắng.
Cửa đôi đóng kín, tường nứt,
côn trùng mùa thu than khóc.
Biết làm sao đây?chỉ một nỗi tương tư,
Tuy cách trở sơn xuyên nhưng
không dứt bỏ được (niềm tương tư này).
Phỏng Dịch
1 Bái Tinh Nguyệt - Nỗi Niềm
Đêm Thu
Giục giã canh khuya,
Sương rơi sạch bụi,
Trăng ám đường sâu ngõ đoạn.
Dậu trúc đèn chong,
Đến ca nhi đình viện.
Nhoẻn cười gặp,
Tự biết, cành quỳnh lá ngọc kề
cận,
Ấm áp mây mầu tươi sáng.
Sóng mắt tình đầy,
Suốt đời người hy hãn.
Chỉ trong tranh, mới có dung
nhan diện.
Nào ai biết, tự đến thần tiên
bạn.
Quyến luyến mưa thuận mây
hòa,
Khổ vì giông xô tán.
Quán cô đơn, tạm trú miền
hoang vắng.
Cài khung cửa, vách nát côn
trùng thán.
Làm sao được, một nỗi tương
tư,
Cách sông hồ núi loạn.
2 Nỗi Niềm Đêm Thu
Dạ sắc cầm canh đương giục giã,
Bụi trần rửa sạch, giọt sương đêm.
Trăng mờ ảm đạm đường im vắng,
Dậu trúc bên song vọng ánh đèn.
Ca nữ trong sân cười gặp gỡ,
Vẻ dung nhan lá ngọc cành quỳnh.
Tươi sáng mây hồng khơi ấm áp,
Lan tình thu thủy uớc bình
sinh.
Mỹ nhân chỉ thấy vẽ trong tranh.
Ai biết Dao đài đến tự mình.
Quyến luyến thuận hòa tình hợp
ý,
Khổ đời gió ác thổi tan tành.
Như đang lạc lõng miền hoang lạnh,
Quán vắng cô liêu tạm gửi thân.
Khép kín cửa đôi trong quạnh quẽ,
Vách tàn thu sắc dế than van.
Một khúc tương tư biết cách nào,
Sơn khê ngăn trở nhớ thương sầu.
Dứt bỏ không xong đành nhẫn nại,
Âm thầm chịu đựng nỗi niềm đau.
HHD 07-2021
Bản Dịch của Lộc Bắc
BÁI TINH NGUYỆT
1-
Giục sáng đêm tàn
Bụi trong nhận móc
Đoạn ngõ sâu, trăng mờ ám
Lan trúc, đèn song
Biết Thu Nương đình viện
Cười gặp gỡ
Tự thấy, cành quỳnh cây ngọc
kề cận
Trời ấm, ráng mầu sáng lạn
Mắt sóng tình lan
Trong đời gặp thật hiếm
Mặt tuyệt đẹp chỉ trong tranh
xuất hiện
Nào ai hay, tiên cảnh tự đến
Quyến luyến mây ấm mưa trơn
Khổ gió kinh thổi loạn
Chốn lạnh hoang, quán vắng
người trọ tạm
Cửa đôi đóng, dế than, tường
rạn
Làm sao đây, một nỗi tương tư
Cách trở, không đứt đoạn!?
2- Nỗi niềm đêm thu
Trời rất khuya, đêm tàn giục
sáng
Sương trong veo, rửa trắng bụi
trần
Trăng mờ tối, ngõ sâu dần
Đèn song, rào trúc bên sân
nhà nàng
Cười gặp gỡ, ngọc quỳnh kề cận
Trời ấm nồng xán lạn ráng màu
Tình lan, mắt sóng liếc mau
Trong đời thật hiếm bên nhau
kết thành
Mặt tuyệt đẹp chỉ tranh xuất
hiện
Nào ai hay tự đến cảnh tiên
Mây nồng, mưa nhuận triền
miên
Khổ cơn gió loạn đứt giềng lứa
đôi
Chốn hoang lạnh thân côi trọ
tạm
Kín cửa đôi, tường rạn, dế
than
Tương tư một nỗi sao đang?
Tình còn day dứt dẫu ngàn núi
sông!
Lộc Bắc
Mai24
No comments:
Post a Comment