淡黃柳 - 姜夔 Đạm Hoàng Liễu – Khương Quỳ
客居合肥南城赤闌橋之西,巷陌凄凉,與江左異。唯柳色夾道,依依可憐。因度此闋,以紓客懷。
Khách cư Hợp Phì nam thành Xích
Lan kiều chi tây, hạng mạch thê lương, dữ giang tả dị. Duy liễu sắc giáp đạo, y
y khả liên. nhân độ thử khuyết, dĩ thư khách hoài.
空城曉角。 Không
thành hiểu giác.
吹入垂楊陌。 Xuy nhập thùy dương mạch.
馬上單衣寒惻惻。 Mã thượng đơn y hàn trắc trắc.
看盡鵝黃嫩綠, Khán tận nga hoàng nộn lục,
都是江南舊相識。 Đô thị Giang Nam cựu tương thức.
正岑寂。 Chính sầm tịch.
明朝又寒食。 Minh triêu hựu hàn thực.
強攜酒、小橋宅, Cường huề tửu, tiểu kiều trạch,
怕梨花落盡成秋色。Phạ lê hoa
lạc tận thành thu sắc.
燕燕飛來, Yến
yến phi lai,
問春何在, Vấn
xuân hà tại,
唯有池塘自碧。 Duy hữu trì đường tự bích.
Chú Thích
1- Đạm hoàng liễu 淡黃柳: từ khúc do Khương Quỳ sáng tác, gồm 2 đoạn tổng cộng 65 chữ. Đoạn trên có 5 câu với 5 trắc vận. Đoạn dưới có 7 câu với 5 trắc vận. Cách luật:
X B T T vận
B T B B T vận
T T B B B T T vận
T T B B X T vận
B T B B T B T vận
T B T vận
B B T B T vận
X X T, T B T vận
T B B, T T B B T vận
T T B B cú
T B B T cú
B T B B T T vận
B: bình thanh; T: trắc thanh;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Hợp Phì 合肥: địa danh, thuộc tỉnh An Huy, TH.
3- Xích Lan kiều 赤闌橋: cây cầu có lan can sơn mầu đỏ.
4- Giang tả 江左: phiếm chỉ vùng Giang nam江南.
5- Khuyết 闋: một khúc hát.
6- Thư 紓: tiêu trừ, giải trừ.
7- Khách hoài 客懷: nỗi lòng người khách.
8- Hiểu giác 曉角: tiếng tù và báo hiệu buổi sáng.
9- Trắc trắc 惻惻: lạnh giá.
10- Nga hoàng 鵝黃 hay 鵞黃: mầu vàng nhạt như mầu lông ngỗng con.
11- Nộn lục 嫩綠: mầu xanh lá cây nhạt.
12- Sầm tịch 岑寂: lặng lẽ tẻ nhạt.
13- Minh triêu 明朝: sáng ngày mai.
14- Hàn thực 寒食: lễ tiết ăn cơm nguội, khoảng gần tiết Thanh minh.
15- Cường 強: kiên quyết.
16- Tiểu Kiều 小橋: mỹ nhân thời Tam quốc, con thứ của Kiều Huyền công 喬玄公, gả cho Chu Du. Trong bài này chữ “Tiểu kiều” ám chỉ
người tình.
17- Trạch 宅: nơi ở, nhà cửa.
18- Trì đường 池塘: ao hồ.
Dịch Nghĩa
Ghi chú của tác giả: Tôi cư
trú tại phía nam thành Hợp Phì, mé tây cầu Xích lan kiều. Đường ngõ buồn bã, khác
với vùng Giang Nam. Duy mầu dương liễu ngập đường, phơ phất dễ thương. Do vậy tôi
soạn khúc ca này để giải tỏa nỗi lòng khách cư.
Trong không thành, tiếng tù và
báo sáng nổi lên.
Âm thanh truyền tới con đường
trồng cây liễu rủ.
Tôi ngồi trên lưng ngựa, mặc áo
đơn, cảm thấy lạnh giá.
Nhìn hết vùng lá liễu vàng nhạt
và xanh lục nhạt.
Đều như đã thấy qua quen thuộc
ở vùng Giang Nam.
Chính tại cô đơn tịch mịch.
Ngày mai lại là lễ tiết hàn
thực.
Tôi cũng đem chai rượu như thường
đem, tới nhà (người yêu) Tiểu Kiều.
Sợ rằng hoa lê rụng hết thì cảnh
sắc còn lại như mầu thu.
Chim yến bay lại,
Hỏi xuân nơi đâu,
Duy chỉ có ao hồ mầu nước
xanh biếc.
Phỏng Dịch
Dương Liễu Sắc Vàng
Không thành sáng sớm tù và,
Vang trong ngõ ngách lòa xòa
liễu dương.
Áo đơn lưng ngựa trên đường,
Cảm cơn giá lạnh một phương sắc
vàng.
Nhìn xem lục nhạt cỏ hoang,
Chốn xưa từng biết Giang Nam
một vùng.
Chính đang tẻ nhạt lạnh lùng.
Ngày mai hàn thực vui cùng
người yêu.
Mang chai rượu, nhà Tiểu kiều,
Sợ lê hoa rụng tiêu điều sắc
thu.
Yến bay lại, xuân nơi đâu,
Chỉ còn xanh biếc hồ ao mơ
màng.
HHD 11-2021
No comments:
Post a Comment