訴衷情 - 黃庭堅 Tố Trung Tình –
Hoàng Đình Kiên
原序: 戎州登臨勝景,未嘗不歌漁父家風,以謝江山。門生請問:
先生家風如何? 為擬金華道人作此章。
Nhung châu đăng lâm thắng cảnh,
vị thường bất ca ngư phụ gia phong, dĩ tạ giang san. Môn sanh thỉnh vấn: tiên
sanh gia phong như hà? Vi nghĩ kim hoa đạo nhân tác thử chương.
一波才動萬波隨, Nhất ba tài động vạn ba tùy,
蓑笠一鉤絲。 Thoa lạp nhất câu ty.
金鱗正在深處, Kim lân
chánh tại thâm xứ,
千尺也須垂。 Thiên xích dã tu thùy.
吞又吐, Thôn
hựu thổ,
信還疑, Tín hoàn nghi,
上鉤遲。 Thướng câu trì.
水寒江靜, Thủy
hàn giang tĩnh,
滿目青山, Mãn
mục thanh san,
載月明歸。 Tái nguyệt minh quy.
Chú Thích
1- Tố trung tình lệnh 訴衷情令: tên một khúc nhạc của Đường giáo phường, sau dùng làm từ bài. Tên khác là “Nhất ty phong 一絲風”, Bộ hoa gian 步花间”. “Đào hoa thủy 桃花水”, “Ngẫu tương phùng 偶相逢”, “Họa lâu không 畫樓空”, “Ngư phụ gia phong 渔父家風”. Bài này có đơn điệu và song điệu. Đơn điệu 33 chữ, bình vận lẫn trắc vận. Song điệu 41 chữ, bình vận. Tố trung tình lệnh là song điệu, gồm 44 chữ, đoạn trước 4 câu và 3 bình vận, đoạn sau 6 câu và 3 bình vận. Cách luật:
X B X T T B B vận
X X X X B vận
X B X X X X cú
X T T B B vận
B T T cú
T B B vận
T B B vận
X B X T cú
X X X X cú
X T B B vận
B: bình thanh; T: trắc thanh;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Nguyên tự 原序: ghi chú.
3- Nhung châu 戎州: thuộc tỉnh Tứ Xuyên, TH.
4- Đăng lâm 登臨: đi du ngoạn.
5- Vị thường 未嘗 = vị
tất 未必, chưa hẳn đã.
6- Ngư phụ 漁父: ông lão đánh cá. Tên một bài Sở từ của Khuất Nguyên,
đời chiến quốc.
7- Gia phong: còn gọi là “Môn
phong 門風”, chỉ những tác phong sinh hoạt truyền lại từ nhiều đời
của một gia đình hay gia tộc.
8- Môn sinh 門生: học trò. Tiên Sinh 先生:
ông thầy.
9- Vi nghĩ 為擬: phỏng theo.
10- Kim Hoa Đạo Nhân 金華道人: tức từ nhân Trương Chí Hòa 張志和 đời
Đường 唐, tự lấy hiệu là Yên Ba Điếu Đồ 烟波釣徒, đã từng viết 5 bài thơ tứ tuyệt “Ngư ca 漁歌”.
11- Tài 才: vừa mới. Nhất ba tài động vạn ba tùy: một đợt song vừa
khởi động thì vạn đợt sóng đi theo. Tác giả mượn câu thơ của Đức Thành 德誠, đời Đường:
“千尺絲綸直下垂,Thiên xích ty luân trực hạ thùy,
“一波才動萬波隨。Nhất ba tài động vạn ba tùy.
“Ngàn thước dây câu thẳng
hạ xuống,
“Một đợt sóng vừa động vạn
đợt sóng đi theo”.
12- Toa (thoa) lạp 蓑笠: áo tơi và nón đan bằng trúc.
13- Câu ty 鉤絲 = điếu
câu 釣鈎: lưỡi câu. (鉤=鈎)
14- Kim lân 金鳞: vẩy con cá sáng lấp lánh, phiếm chỉ cá.
15- Thôn hựu thổ 吞又吐: (cá) cắn mồi rồi lại nhả ra.
16- Trì 遲: muộn, chậm.
17- Tái minh nguyệt quy 載明月歸: chở ánh trăng sáng đi về. Mượn chữ từ bài “Thuyền tử
hòa thượng kệ 船子和尚偈” của tác giả Đức Thành 德誠 đời
Đường 唐:
“夜靜水寒魚不食,Dạ tĩnh thủy hàn ngư bất thực,
“滿船空載明月歸。Mãn thuyền không tái minh nguyệt quy.
“Đêm yên lặng nước lạnh cá
không cắn mồi câu,
“Cái thuyền không chở đầy
ánh trăng sáng đi về”.
Dịch Nghĩa
Ghi chú của tác giả: Ở Nhung
Châu di du ngoạn xem thắng cảnh, chưa hẳn đã không ca ngợi gia phong của ngư phụ
để cảm tạ giang sơn. Học trò xin hỏi: gia pgong của ông thầy thế nào? Phỏng
theo (bài từ của) Kim Hoa Đạo Nhân mà làm bài này.
Một đợt sóng mới động thì vạn
đợt sóng động theo.
Áo tơi nón trúc cần câu.
Cá đang ở nơi sâu,
Ngàn thước cũng nên thả câu.
Cá ngậm mồi rồi lại nhả ra,
Nửa tin nửa ngờ (Rằng cá đã cắn
câu),
(Vì vậy) chậm dở cần câu lên.
Nước lạnh sông yên tĩnh,
Mãn nhãn ngắm núi xanh,
Chở ánh trăng sáng (Đầy thuyền
mà) đi về.
Phỏng Dịch
1 Tố Trung Tình - Ngư Phụ
Một lần sóng vỗ vạn theo sau,
Tơi nón một cần câu.
Vẩy vàng lặn sâu thăm thẳm,
Ngàn thước cũng buông câu.
Nhai lại nhả,
Vẫn còn ngờ.
Chậm hồi lâu.
Sông bình nước lạnh,
Đẹp mắt núi xanh
Về với trăng thâu.
2 Ngư Phụ
Một đợt sóng lên vạn sóng xô.
Áo tơi nón trúc móc dây tơ.
Vẩy vàng đang lặn sâu thăm thẳm,
Ngàn thước thả câu đáy lặng lờ.
Cắn mồi lại nhả vẫn còn ngờ,
Chậm kéo cần lên luống ngẩn
ngơ.
Nước lạnh sông yên nhìn núi
biếc,
Về làng chở hết ánh trăng mơ.
HHD 01-2022
Bản Dịch của Lộc Bắc
Tố Trung Tình Lệnh
1-
Một sóng động, vạn sóng theo
sau
Áo, nón, một cần câu
Cá ngon trốn nơi sâu thẳm
Ngàn thước cũng buông câu
Rỉa rồi nhả
Có chắc đâu
Dở cần lâu
Sông im, nước lạnh
Mãn nhãn núi xanh
Chở trăng về cầu!
2-
Một sóng động, vạn theo sau.
Áo tơi, nón lá, cần câu men bờ
Cá ngon hốc thẳm lững lờ
Nước sâu ngàn thước canh giờ
thả câu
Rỉa rồi nhả, có chắc đâu
Cho nên chậm dở cần câu, đợi
chờ
Sông im, nước lạnh khói mờ
Mắt vui núi biếc, trăng no
thuyền về!
Lộc Bắc
Mai23
No comments:
Post a Comment