八歸 - 史達祖 Bát Quy - Sử Đạt Tổ
秋江帶雨 Thu Giang Đái
Vũ
秋江帶雨, Thu giang đái vũ,
寒沙縈水, Hàn sa oanh thủy,
人瞰畫閣愁獨。 Nhân kham họa các sầu độc.
煙蓑散響驚詩思,
Yên thoa tán hưởng kinh thi tứ,
還被亂鷗飛去,
Hoàn bị loạn âu phi khứ,
秀句難續。 Tú cú nan tục.
冷眼盡歸圖畫上,
Lãnh nhãn tận quy đồ họa thượng,
認隔岸、微茫雲屋。 Nhận cách ngạn, vi mang vân ốc.
想半屬、漁市樵村, Tưởng
bán thuộc, ngư thị tiều thôn,
欲暮競然竹。 Dục mộ cạnh nhiên trúc.
須信風流未老,
Tu tín phong lưu vị lão,
憑持酒、慰此淒涼心目。 Bằng trì
tửu, úy thử thê lương tâm mục.
一鞭南陌, Nhất tiên nam mạch,
幾篙官渡, Kỷ cao quan độ,
賴有歌眉舒綠。
Lại hữu ca my thư lục.
只匆匆眺遠,
Chỉ thông thông thiếu viễn,
早覺閒愁掛喬木。 Tảo giác nhàn sầu quải kiều mộc.
應難奈, Ưng nan nại,
故人天際, Cố nhân thiên tế,
望徹淮山, Vọng triệt Hoài sơn,
相思無雁足。 Tương tư vô nhạn túc.
Chú Thích
1- Bát Quy八歸: tên từ điệu,
có điệu dùng vần trắc, có điệu dùng vần bằng. Bài này gồm 115 chữ, đoạn trên có
10 câu và 4 trắc vận, đoạn dưới có 11 câu và 4 trắc vận.
Cách luật:
B B T T cú
B B B T cú
B T T T X T vận
B B T T B B T cú
B T T B B T cú
T X B T vận
T T X B B T T cú
T T T, B B B T vận
T T T, X T B B cú
T T T B T vận
B T B B T T cú
B B T, T T B B B T vận
T B B T cú
T B B T cú
T T B B B T vận
T B B T T cú
T T B B T B T vận
B B T cú
T B B T cú
T T B B cú
B B B T T vận
B: thanh bình; T: thanh trắc;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Oanh 縈 = oanh
nhiễu 縈繞: quanh co.
3- Kham 瞰: cúi nhìn xuống.
4- Họa các 畫閣: căn nhà lầu hoa lệ.
5- Yên thoa 煙蓑: áo tơi của ngư phủ đi trong mưa khói. Chữ này cũng
ám chỉ ngư dân.
6- Tán hưởng 散響:Tiếng động phát ra khi ngư dân quăng lưới vào nước.
7- Thi tứ 詩思: ý thơ.
8- Loạn âu 亂鷗: Đàn chim âu bay tán loạn.
9- Tú cú 秀句: câu thơ hay, đẹp.
10- Đồ họa 圖畫: họa đồ.
11- Cách ngạn 隔岸: bờ đối diện, bờ bên kia.
12- Vi mang 微茫: ẩn ước, mờ ảo, mơ hồ.
13- Vân ốc 雲屋: nhà xanh xám như mây.
14- Bán 半 = đa bán = nhất điểm bán 一點半:
già nửa.
15- Ngư thị tiều thôn 漁市樵村: xóm chài lưới.
16- Dục mộ 欲暮: Hoàng hôn, ngày sắp hết.
17- Cạnh 競: đua nhau.
18- Nhiên trúc 然竹 = thiêu trúc 燒竹
= nhiên trúc 燃竹: đốt trúc (nấu cơm).
19- Bằng trì tửu 憑持酒 = bằng
trì tôn tửu 憑持尊酒: bằng cầm cái chén để uống rượu.
20- Tiên 鞭: roi ngựa; nhất tiên 一鞭
= 1 (tiếng) roi ngựa, ám chỉ cưỡi ngựa.
21- Cao 篙: cái sào để chống thuyền, chèo thuyền: kỷ cao 幾篙 = vài cái sào (ý nói vài lần chèo thuyền).
22- Quan độ 官渡: bến đò công cộng.
23- Ca mi 歌眉: chân mày của ca nữ. Đại chỉ ca nữ.
24- Lục 綠: chữ lục ở đây chỉ chân mày của phụ nữ tô phẩm xanh
cho đậm thêm. Thư lục 舒綠 = thư triển sầu mi 舒展愁眉: thư giãn đôi mi sầu muộn (thư thái tươi vui).
25- Tảo giác 早覺: sớm biết = dĩ giác 已覺:
đã biết.
26- Kiều mộc 喬木: = Cây cổ thụ ở cố hương, đại chỉ cố hương.
27- Vọng triệt 望彻 = vọng tận 望盡: nhìn thật xa.
28- Hoài sơn 淮山: dãy núi ở gần tỉnh Dương Châu 揚州, TH.
29- Vô nhạn túc 無雁足: không có chân nhạn, ý nói không có thơ tín.
Dịch Nghĩa
Tác giả làm bài này trong dịp
đi xứ nước Kim.
Ngày thu trên sông kèm theo
mưa.
Bãi cát lạnh quanh co theo
dòng nước.
Tôi (lên) căn lầu hoa lệ nhìn
xuống (cảm thấy) buồn rầu cô độc.
(Trong khói mưa mông lung) tiếng
ngư phủ mặc áo tơi quăng lưới làm kinh động thi hứng (của tôi)
Còn bị đàn hải âu bay tán loạn
(làm kinh động)
(nên) Câu thơ hay khó tiếp tục.
Mắt lạnh lùng nhìn suốt (toàn
cảnh) dồn vào bức họa đồ
Bờ (sông) đối diện như ẩn ước
có nhà cửa (lúp xúp) như mây.
(Tôi) tưởng đa bán là làng
chài lưới hay xóm tiều phu,
Lúc hoàng hôn (họ) đua nhau đốt
(củi) tre (nấu cơm chiều).
(Tôi) tự tin rằng cái tính
phong lưu chưa suy kém già nua.
Bèn cầm chén ruợu lên (uống
ruợu), an ủi cái cảnh thê lương này mà mắt thấy lòng buồn.
Một (tiếng) roi ngựa (từ) con
đường phía nam.
(ý nói đã từng cưỡi ngựa đi
chơi ở con đường phía nam)
(đã từng)Vài lần chèo thuyền
qua bến đò.
Lại có cả ca sĩ tươi cười (đi
theo)
(Hiện tại) chỉ vội nhìn cảnh
viễn phương,
đã cảm thấy buồn rầu vương mắc
trên cây cao (buồn rầu nhớ cố hương).
Nên phải rất khó chịu đựng,
Cố nhân ở chân trời, (“bạn
gái” vì câu tương tư ở hàng dưới)
Nhìn suốt núi Hoài sơn (cũng
không thấy cố nhân),
Lòng tương tư mà thư tín bặt
không.
Phỏng Dịch
1 Bát Quy – Mùa Thu Trên Sông
Mưa thu suối phủ,
Cát quanh co lạnh,
Trông suốt gác tía sầu độc.
Ngư dân lưới vọng kinh thi tứ,
Còn bị loạn chim bay vút,
Ý đẹp ngưng tắc.
Mắt lạnh họa đồ nhìn tận suốt,
Thấy cách bến nhà tranh giả
thực.
Tưởng chắc đó, chài lưới thôn
trang,
Tối đến vội thiêu trúc.
Tin tưởng phong lưu chưa lão,
Nâng ly rượu, an ủy thê lương
tâm mục.
Lối nam rong ruổi,
Mấy phen qua bến,
Lại có ca nhi mi lục.
Chỉ nhanh nhanh viễn vọng,
Nhớ cố lý buồn rầu cảm xúc.
Niềm thương nhớ,
Cố nhân xa thẳm,
Ngó suốt Hoài sơn,
Tương tư nàng lắm lúc.
2 Mưa Thu Trên Sông
Mưa thu đã đến với dòng sông,
Cát lạnh quanh co lượn uốn
vòng.
Gác tía trông xa sầu lẻ bạn.
Mông lung khói phủ áo ngư
ông.
Thi tứ hoảng kinh chài động
nước,
Vần thơ gián đoạn hải âu bay.
Cảnh xa thu gọn trong tầm mắt,
Ẩn ước bên bờ nhà xếp mây.
Phải chăng ngư phố hay tiều
thôn,
Đốt trúc hoàng hôn cuộn khói
dồn.
Trước cảnh thê lương sầu ảm đạm,
Phong lưu chén ruợu dịu tâm hồn.
Cưỡi ngựa rong chơi mạch hướng
nam,
Chèo thuyền từng ghé bến giang
tầm.
Ca nữ dung nhan vui mấy độ,
Vội vàng trông ngắm chốn xa
xăm.
Đã biết lòng buồn nhớ cố
hương,
Người xưa thiên tế nại lòng
thương.
Vọng tận sơn xuyên mong thấy
bóng,
Tương tư chân nhạn vắng bên
đường.
HHD 9-2018
No comments:
Post a Comment