夜合花 - 史達祖 Dạ Hợp Hoa - Sử
Đạt Tổ
柳鎖鶯魂, Liễu
tỏa oanh hồn,
花翻蝶夢, Hoa
phiên điệp mộng,
自知愁染潘郎。 Tự tri sầu nhiễm Phan lang.
輕衫未攬, Khinh
sam vị lãm,
猶將淚點偷藏。 Do tương lệ điểm thâu tàng.
念前事, Niệm
tiền sự,
怯流光, Khiếp
lưu quang,
早春窺、酥雨池塘。Tảo xuân khuy,
tô vũ trì đường.
向消凝裏, Hướng
tiêu ngưng lý,
梅開半面, Mai
khai bán diện,
情滿徐妝。 Tình mãn từ trang.
風絲一寸柔腸, Phong ty nhất thốn nhu trường,
曾在歌邊惹恨, Tằng tại
ca biên nhạ hận,
燭底縈香。 Chúc để oanh hương.
芳機瑞錦, Phương
cơ thụy cẩm,
如何未織鴛鴦。 Như hà vị chức uyên ương.
人扶醉, Nhân
phù túy,
月依墻, Nguyệt y tường,
是當初、誰敢疏狂!Thị đương sơ,
thùy cảm sơ cuồng!
把閑言語, Bả
nhàn ngôn ngữ,
花房夜久, Hoa
phòng dạ cửu,
各自思量。 Các tự tư lương.
Chú Thích
1- Dạ hợp hoa 夜合花: tên từ bài. Bài này có 100 chữ, bình vận. Cách luật:
X T B B cú
X B X T cú
T B B T B B vận
X B T T cú
B X T T B B vận
X X T cú
T B B vận
T X X, X T B B vận
X B B T cú
X B X T cú
X T B B vận
B X X T B B vận
X T B B T T cú
X T B B vận
X X T T cú
X B X T B B vận
X X T cú
T B B vận
T X X, X T B B vận
T B B T cú
X B T T cú
B T B B vận
B: bình thanh; T: trắc thanh;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Tỏa 鎖: che lấp
3- Oanh hồn 鶯魂: hồn chim oanh, phiếm chỉ chim oanh.
4- Điệp mộng 蝶夢: cảnh trong mộng.
5- Phan lang 潘郎: tức là Phan Nhạc 潘岳 hay Phan Nhạc 潘嶽, người đời Tấn 晉,
rất đẹp trai. Người đời sau dùng chữ Phan Lang để chỉ người tình đẹp trai.
6- Lưu quang 流光: thời gian đi vùn vụt như nước chẩy.
7- Khuy: phiếm chỉ “kiến見”: thấy., quan sát.
8- Tô vũ 酥雨: mưa bụi mờ mịt. Lấy chữ từ bài thơ “Tảo xuân trình
thủy bộ Trương thập bát viên ngoại 早春呈水部張十八員外: Xuân sớm trình lên quan Thủy bộ viên ngọai lang họ
Trương thứ mười tám (tức Trương Tịch 張籍)” của Hàn Dũ 韓愈:
天街小雨潤如酥,Thiên nhai tiểu
vũ nhuận như tô,
草色遙看近卻無。Thảo sắc dao khan cận khước vô.
Mưa nhỏ làm những con đường
kinh đô trơn nhuận như váng sữa.
Mầu cỏ nhìn xa như thành 1
phiến, lại gần thì thưa thớt như không.
9- Trì đường 池塘 = trì đường 池溏: ao hồ.
10- Tiêu ngưng 消凝 = tiêu hồn ngưng thần 銷魂凝神, ý nói vì cảm thương nên xuất thần. Lấy chữ từ bài từ “Dạ bán nhạc 夜半樂” của Liễu Vĩnh 柳永:
對此佳景,Đối thử giai cảnh, Trước cảnh đẹp này,
頓覺銷凝,Đốn giác tiêu ngưng,
Chợt cảm thấy tiêu hồn ngưng thần,
惹成愁緒。Nhạ thành sầu tự.
Gây ra nỗi sầu.
11- Từ trang 徐妝 = Từ phi bán diện trang 徐妃半面妝: bà Từ phi trang điểm một nửa mặt. Vì vậy chữ “Từ trang” hàm ý trang điểm
một nửa mặt, lấy chữ từ câu thơ của Lý Thương Ẩn 李商隱trong
bài thơ tuyệt cú Nam Triều 南朝:
“休誇此地分天下,Hưu khoa thử địa phân thiên hạ,
只得徐妃半面妝” 。Chỉ đắc Từ phi bán diện
trang.
Chớ khoe đất này chia đôi
được thiên hạ,
Chỉ có được bà Từ phi
trang điểm nửa mặt.
Hậu thế dùng chữ từ trang để
chỉ thiếu nữ mỹ mạo.
Sách “Nam sử Lương Nguyên Đế
Từ phi truyện 南史梁元帝徐妃傳” chép rằng bà Từ Phi chỉ trang điểm có một nửa mặt mỗi
khi nhà vua đến cung để khi thị nhà vua bị chột một mắt.
12- Phong ty 風絲: gió nhẹ, do bài thơ “Thiên Tân kiều vọng xuân 天津橋望春” của Ung Đào 雍陶:
津橋 春水浸紅霞,Tân kiều xuân thủy
xâm hồng hà,
煙柳風絲拂岸斜。Yên liễu phong ty phất ngạn tà.
Dưới cầu Thiên Tân, nước
xuân tràn ngập ráng mây hồng,
Cành liễu nhiều như khói phất
phơ trên bờ nghiêng trước làn gió nhẹ.
13- Nhu trường 柔腸: ruột mềm, chỉ tình cảm triền miên.
14- Nhạ hận 惹恨: đụng chạm đến mối hận lòng.
15- Chúc để oanh hương 燭底縈香: mùi hương vấn vít quanh cái giá cắm nến.
16- Phương cơ 芳機: chỉ cái khung cửi.
17- Thụy cẩm 瑞錦: gấm mầu sắc được dệt ra với hoa văn rồng phượng đẹp đẽ.
18- Uyên ương 鴛鴦: chỉ đôi tình nhân hay vợ chồng yêu nhau.
19- Nhân phù túy 人扶醉: người đứng dựa vì say.
20- Đương sơ 當初: lúc mới bắt đầu hoặc chỉ lúc xưa hoặc chỉ chuyện gì đó
trong quá khứ.
21- Sơ cuồng 疏狂: chỉ nhiệm ý, không bị câu thúc.
22- Nhàn ngôn ngữ 閑言語: những lời nói bình thường trong sinh hoạt hoặc là những
lời vô nghĩa. Thị đương sơ, thùy cảm sơ cuồng, bả nhàn ngôn ngữ 是當初、誰敢疏狂, 把閑言語: ý nói lúc xưa,
ai dám nhiệm ý ngỏ lời thề non hẹn biển với nhau. Cũng có người nói chữ “Nhàn
ngôn ngữ” ám chỉ những lới thề nguyền ngày xưa nay thành vô nghĩa.
23- Hoa phòng 花房: tức khuê phòng 閨房:
nơi phụ nữ ở.
24- Tư lương 思量: suy tư, suy nghĩ.
Dịch Nghĩa
Bụi liễu che lấp chim oanh.
Bướm lượn trên hoa như cảnh
trong mộng,
Tự biết sầu đã nhiễm trên mái
tóc chàng trai anh tuấn như Phan lang.
Chưa mặc được áo mỏng,
Chỉ âm thầm che giấu giọt lệ.
Nghĩ đến chuyện xưa,
Kinh khiếp vì thời gian đi
nhanh,
Đã thấy tảo xuân, mưa bụi giăng
giăng trên ao hồ (hoăc là trong lúc tảo xuân tôi quan sát mưa bụi giăng trên ao
hồ).
Tâm hồn tan nát tinh thần ngưng
đọng,
Hoa mai chớm nở,
Hàm tình như thiếu nữ mỹ mạo.
Gió nhè nhẹ gợi lên mối nhu tình,
Đã từng tại nơi ca xướng mới
gây ra mối hận (của tôi),
Mùi hương thơm quấn quanh dưới
cây nến.
Khung cửi tốt đẹp dệt ra gấm
mầu sắc long phụng,
Tại sao chưa dệt ra đôi uyên ương.
Tôi một mình uống rượu say sưa,
Ánh trăng chiếu trên tường,
Đó là lúc trước, ai dám nhiệm
ý không câu thúc.
Thề non hẹn biển thì nay cũng
thành những lời vô nghĩa.
Trải đêm dài trong phòng hoa,
Mỗi người tự mình suy tư.
Phỏng Dịch
1 Dạ Hợp Hoa – Dang Dở
Liễu khóa hồn oanh,
Hoa vờn bướm mộng,
Biết rằng chàng vướng sầu
thương.
Chưa trùm áo mỏng,
Thầm giấu giọt lệ buồn vương.
Nhớ chuyện cũ,
Sợ thời gian.
Thấy xuân sớm, mưa bụi hồ đường.
Phách hồn ngưng kết,
Chớm hoa mai nở,
Mỹ mạo cô nương.
Gió mơn man nỗi tình trường.
Mối hận này ca xướng ấy,
Nến giá vờn hương.
Khung dệt gấm vóc,
Sao chưa dệt cánh uyên ương.
Say đứng dựa,
Trăng trên tường.
Chính lúc xưa, ai dám ngông
cuồng.
Ngỏ lời vô nghĩa,
Phòng hoa đêm vắng,
Mình tự suy lường.
2 Dang Dở
Liễu dương ẩn hiện hồn oanh,
Hoa vờn cánh bướm mộng thành
xôn xao.
Tình nhân sầu bạc mái đầu,
Áo thưa chưa mặc giọt châu ngỡ
ngàng.
Nghĩ chuyện xưa, sợ thời
gian,
Xuân về chớm thấy mưa giăng
ao hồ.
Ngưng thần lạc phách hồn mơ,
Hoa mai mới nở tình thơ mỹ miều.
Gió khơi một tấc lòng yêu,
Tại nơi ca xướng mới chiêu hận
lòng.
Khói hương quấn quít nến hồng,
Gấm hoa khung cửi dệt xong tình
trường.
Tại sao không dệt uyên ương?
Say sưa đứng dựa bức tường dưới
trăng.
Khi xưa ai dám vội vàng,
Thề nguyền vô nghĩa, lỡ làng
lứa đôi.
Phòng hoa đêm trải canh dài,
Suy tư hai nẻo đường đời hai
nơi.
HHD 6-2023
No comments:
Post a Comment