秋夜其一 阮攸 Thu dạ kỳ 1 - Nguyễn Du
繁星歷歷露如銀, Phồn tinh
lịch lịch lộ như ngân,
東壁寒蟲悲更辛。 Đông bích
hàn trùng bi cánh tân.
萬里秋聲催落葉, Vạn lý
thu thanh thôi lạc diệp,
一天寒色掃浮雲。 Nhất
thiên hàn sắc tảo phù vân.
老來白髮可憐汝, Lão lai bạch
phát khả liên nhữ,
住久青山未厭人。 Trú cửu
thanh sơn vị yếm nhân.
最是天涯倦遊客, Tối thị
thiên nhai quyện du khách,
窮年臥病桂江津。 Cùng niên
ngoạ bệnh Quế giang tân.
Dịch nghĩa:
Đêm Thu kỳ 1 của Nguyễn Du
Sao dày đặc,
trong sáng rõ ràng (1), sương như bạc
Vách phía đông,
(tiếng) dế mèn (2) buồn bã (3).
Muôn dặm, tiếng
thu giục giã lá rụng.
Một bầu trời đầy
vẻ lạnh, quét (sạch) mây trôi.
Tuổi già đến, tóc
bạc, đáng thương (cho) anh!
Ở lâu (mà) núi
xanh chưa chán người.
Nhất là (4) người
du khách mệt mỏi ở nơi chân trời,
Suốt năm (5) nằm
bệnh ở bến Quế giang (6).
Chú Thích:
(1) Lịch lịch歷歷 = trong sáng rõ ràng.
(2) Đông bích東壁 = vách tường phía đông;
Hàn trùng 寒蟲= côn trùng trong mùa lạnh, thường chỉ con
dế.
Đông bích hàn
trùng 東壁寒蟲 = con dế
mèn (tiếng chữ là tất suất 蟋蟀 hay xúc chức 促織), 1 giống dế nhỏ thường sống trong khe hở, khe nứt của vách tường.
Người xưa cho rằng giống dế này thích chỗ ấm áp nên trú ở vách nhà nơi hướng
đông có ánh mặt trời soi ấm. Đông bích và hàn trùng thường đi đôi với nhau
trong văn chương cổ. Thí dụ như câu: "Minh nguyệt kiểu dạ quang, Xúc chức
minh đông bích 明月皎夜光,促織鳴東壁"
= Trăng sáng soi đêm trong, Dế mèn kêu tường đông.
(3) Bi cánh tân 悲更辛 buồn thêm cay, do chữ bi tân 悲辛= bi thương tân toan 悲伤辛酸 = đau buồn chua cay.
(4) Tối thị 最是 = Nhất là, sau cùng là...
(5) Cùng niên 窮年= suốt 1 năm (nhất chỉnh niên 一整年).
(6) Quế giang tân
桂江津 = bến Quế giang tức là bến sông Lam.
Phỏng Dịch:
(1)
Đêm Thu
Sao dầy giằng giặc,
sương như bạc,
Buồn bã tường
đông dế khóc than.
Muôn dặm tiếng
thu gieo lá rụng,
Một trời mầu lạnh
quét mây ngàn.
Đến già, tóc bạc
đáng thương phận,
Mãi ở, non xanh
chưa chán thân.
Mệt mỏi chân trời
xa lữ khách,
Suốt năm nằm bệnh
Quế giang tân.
(2)
Đêm Thu
Sao dầy giằng
giặc, ánh sương,
Tường đông dế
khóc buồn thương vơi đầy.
Tiếng thu muôn
dặm lá bay,
Một trời sắc lạnh
quét mây xa gần.
Tuổi già tóc bạc
thương thân,
Ở lâu chưa chán
non xanh chiều người.
Nhất là lữ
khách bên trời,
Suốt năm ốm yếu
nằm dài Quế giang.
HHD
ĐÊM THU
(1)
Đầy sao sương bạc
ánh như gương
Buồn bã tường
đông dế khóc thương
Muôn dặm tiếng
thu sui lá rụng
Một trời lạnh lẽo
quét mây vương
Già đến, tóc
phai đau xót bạn
Sống lâu, non
thẳm vẫn còn nương
Thảm thay du
khách chân trời mỏi
Năm tháng Quế
Giang liệt chiếu giường!
(2)
Sao chi chít lồng
sương như bạc
Tường bên đông
dế hát thở than
Ngàn thu sui lá
rụng tràn
Một trời sắc lạnh
mây tan trong ngần
Già chợt đến
thương thân tóc bạc
Náu nương lâu,
tuổi hạc non chiều
Chân trời lữ
khách cô liêu
Suốt năm ôm bệnh
sóng triều Quế Giang
Lộc Bắc
Dec2016
SƯƠNG THU
(Bài họa ĐÊM
THU 1 LB)
Sương đêm sao
chiếu tựa tấm gương
Tường vôi dế
khóc như nhớ thương
Lá thu xào xạc
buồn rơi rụng
Mảnh trời thu lạnh
mây vấn vương
Tóc phai già yếu
nhà xa cách
Non cao núi thẳm
thân vẫn nương
Lữ khách dừng
bước nhìn non nước
Quế Giang mòn mỏi
bệnh nằm giường
VĂN BỔN
ĐÊM THU
Sương bạc giăng mờ
che ánh sao
Tường đông tiếng dế
vọng lao xao
Trời xanh phủ kín
đêm thu lạnh
Đất rộng vàng cây
lá đổ ào
Tuổi hạc sức già
đau tóc trắng
Núi xanh thăm thẳm
giữ chân nào
Quê người phận bạc
lòng xao xuyến
Sông QUẾ quanh năm
bệnh thấp cao.
BẠCH NGA
Đêm thu
Sao đầy sáng bạc
tựa sương rơi
Đông vách dế
than vẳng rã rời
Muôn dặm thu
ngân đầy lá rụng
Một trời lạnh lẽo
sạch mây trôi
Tới già tóc trắng
thêm buồn phận
Mãi ở núi xanh vẫn
nhớ người
Lữ khách phương
xa thêm mỏi mệt
Quế Giang nằm viện
cả năm trời
Bá Nha
No comments:
Post a Comment