臨江仙 - 李煜 Lâm Giang Tiên - Lý Dục
櫻桃落盡春歸去, Anh đào lạc
tận xuân quy khứ,
蝶翻金粉雙飛。 Điệp
phiên kim phấn song phi.
子規啼月小樓西, Tử Quy đề
nguyệt tiểu lâu tây,
玉鉤羅幕, Ngọc
câu la mạc,
惆悵暮煙垂。 Trù
trướng mộ yên thùy.
別巷寂寥人散後, Biệt hạng
tịch liêu nhân tán hậu,
望殘菸(煙)草低迷。 Vọng tàn yên
thảo đê mê.
爐香閒裊鳳凰兒, Lô hương
nhàn niểu phụng hoàng nhi,
空持羅帶, Không
trì la đái,
回首恨依依。 Hồi
thủ hận y y.
Chú Thích
1- Lâm giang tiên 臨江仙 : tên
từ điệu, gồm 48 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn có 5 câu 3 bình vận.
2- Anh Đào 樱桃:cây anh đào, kết quả vào mùa hè. Người xưa dùng quả
anh đào để hiến lễ ở miếu thờ tổ tông.
3- Lạc tận 落盡:rụng hết, ý nói đã điêu tàn.
4- Phiên 翻 = phiên phi 翻飛, bay tung tăng.
5- Kim phấn 金粉:phấn trang sức của phụ nữ. Chỗ này ám chỉ cánh con bươm
bướm.
6- Tử Quy 子规:tên khác của chim đỗ quyên. Tương truyền vua Thục đế bị
bại vong mất nước sau khi chết biến thành chim đỗ quyên đêm đêm kêu khóc thương
nhớ nước cũ, cho đến khi khạc ra máu. Vì vậy mới có câu "đỗ quyên đề huyết
= chim đỗ quyên kêu đến thổ huyết".
7- Đề nguyệt 啼月:(Chim cuốc) kêu dưới trăng.
8- Lâu tây 樓西; đại chỉ căn nhà gác.
9- Hạng 巷 : ngõ nhỏ. Biệt hạng 別巷:
ngõ riêng biệt.
10- Tịch liêu 寂寥:vẻ lạnh lẽo buồn tẻ.
11- Đê mê 低迷:trạng thái mơ hồ không rõ ràng. Bản khác chép "thê
mê 凄迷 = buồn tẻ mơ hồ”.
12- Nhàn niểu 閒裊:hình dung khói bay lượn quanh co đi lên.
13- Phụng hoàng nhi 鳳凰兒:con chim phụng. Trong bài này có thể ám chỉ những vật
liệu thêu hình chim phụng, hoặc cái lư hương đúc thành hình chim phụng hay cái
lư hương có khắc hình chim phụng.
14- Trì 持:cầm nắm 拿着。
15- La đái 羅帶:giải thắt lưng bằng lụa (có vẻ như của phụ nữ dùng thắt
ngang lưng).
16- Hận y y 恨依依:buồn hận dằng dặc không dứt.
Dịch Nghĩa
Bài này cho thấy sự đau buồn của người vong quốc do Nam Đường Hậu Chủ làm trong lúc bị an trí ở Biện Lương. Những bài từ của ông truyền tụng trong dân gian rất nhanh chóng, đến nỗi Tống Thái Tông ganh tức nói rằng: "Những bài từ của nó truyền trong dân gian còn nhanh hơn chiếu chỉ của trẫm".
Quả anh đào (để hiến lễ ở
tông miếu) đã rụng hết. Xuân đi mất từ lâu.
Đôi bươm bướm phấn vàng bay
(tung tăng)
Chim đỗ quyên kêu dưới trăng ở
gần căn gác nhỏ.
(Dựa vào cửa sổ có) cái móc bằng
ngọc treo màn cửa.
Buồn bã (nhìn màn) khói chiều
xuống thấp.
(Vào đêm) người đã đi hết,
trong cái ngõ nhỏ tịch liêu.
Đối diện tàn dư của cỏ vương
khói như mơ hồ.
Từ cái lư hương khắc hình
chim phụng hoàng, khói nhẹ từ từ bay lên vòng vo.
(hoặc là từ lư hương khói nhẹ
bay lên quanh co vòng qua y phục - hoặc gối - thêu chim phụng hoàng)
Đứng không mân mê giải lụa
(hoặc là cô ta buồn bã đứng lặng mân mê giải lụa)
Quay đầu lại buồn hận mênh
mang.
Phỏng Dịch
1 Lâm Giang
Tiên - Anh Đào Điêu Tạ
Anh đào điêu tạ xuân đi mất,
Tung tăng đôi bướm cánh mầu.
Đỗ quyên gọi nguyệt trước tây
lâu,
Móc màn ngọc lụa,
Chiều xuống khói giăng sầu.
Ngõ vắng tịch liêu người tản mát,
Ngắm tàn sương cỏ nao nao.
Phụng hoàng lư khói uốn vòng
câu,
Mân mê giải lụa
Nhìn lại hận mãi cao.
2 Anh Đào Điêu Tạ
Anh hoa điêu tạ xuân đi mau,
Đôi bướm tung tăng lượn cánh
mầu.
Đỗ quyên gọi nguyệt bên lầu vắng,
Chiều xuống song thưa khói tỏa
sầu.
Người vắng tịch liêu ngõ tối
sâu,
Mơ hồ sương phủ cỏ nao nao.
Lư hương chim phượng buông làn
khói,
Cầm dải lụa đào, hận mãi cao.
Bản Dịch của Lộc bắc
Lâm Giang Tiên -
Lý Dục
1-
Anh đào rụng hết, xuân đi mất
Bướm đôi bay lượn phấn vàng
Cuốc kêu gác nhỏ dưới vầng trăng
Màn tơ móc ngọc
Buồn bã khói chiều buông
Tịch liêu ngõ nhỏ, người ly tán
Mộng tàn hơi cỏ mơ hồ
Khói lư gối phụng cuốn vòng vo
Hờ cầm đai lụa
Quay đầu hận phất phơ
2-
Anh đào rụng hết
xuân đi mất
Đôi bướm lượn
bay quanh phấn mật
Gác nhỏ cuốc gào
dưới ánh trăng
Chiều buông buồn
bã màn tơ ngọc
Tịch liêu ngõ nhỏ
người ly tán
Hơi cỏ mộng tan
thoảng mơ hồ
Khói lư gối phụng
cuốn vòng vo
Quay đầu, đai lụa
phất phơ, hận sầu!
Lộc Bắc
Aug2018
No comments:
Post a Comment