踏莎行 - 秦觀 Đạp Sa Hành - Tần Quan
霧失樓臺, Vụ
thất lâu đài,
月迷津渡。 Nguyệt
mê tân độ,
桃源望斷無尋處。 Đào nguyên vọng
đoạn vô tầm xứ.
可堪孤館閉春寒, Khả kham cô
quán bế xuân hàn,
杜鵑聲裏斜陽暮。 Đỗ quyên
thanh lý tà dương mộ.
驛寄梅花, Dịch
ký mai hoa,
魚傳尺素。 Ngư
truyền xích tố.
砌成此恨無重數。 Thế thành thử
hận vô trùng số.
郴江幸自繞郴山, Sâm giang hạnh
tự nhiễu Sâm sơn,
為誰流下瀟湘去。 Vi thùy lưu
hạ Tiêu Tương khứ.
Chú Thích
1- Đạp Sa (thoa) Hành 踏莎行: tên từ điệu. Điệu này có 58 chữ, chia làm hai đoạn,
mỗi đoạn 5 câu, 3 trắc vận.
2- Sâm châu 郴州: tên đất, nay thuộc tỉnh Hồ Nam 湖南, TH
3- Vụ thất lâu đài 雾失楼台: sương dầy che khuất lâu đài.
4- Tân độ 津渡: bến đò, nơi thuyền bè đậu để đón người, vật, chở đi
hoặc từ nơi khác đến.
5- Nguyệt mê tân độ 月迷津渡: ánh trăng mông lung, không nhìn rõ bến đò.
6- Đào nguyên 桃源 = Đào
hoa nguyên 桃花源: theo cuốn sách Đào Hoa Nguyên Ký 桃花源記 của Đào
Uyên Minh 陶淵明 đời
Nam Bắc Triều, kể lại chuyện 1 người ngư dân tình cờ lạc vào 1 nơi cách ly với
thế tục. Nơi đó gọi là Đào Hoa Nguyên, người dân sống an lành đầy đủ, không có chiến
tranh, áp bức.
7- Vọng đoạn 望斷: đưa mắt nhìn thật xa.
8- Vô tầm xứ 無尋處: tìm không thấy.
9- Đào nguyên vọng đoạn vô tầm
xứ 桃源望斷無尋處: đưa mắt nhìn thật xa mà không tìm thấy chốn Đào Nguyên
ở đâu. Đào Hoa Nguyên là nơi có sinh hoạt
an lạc, tý tưởng.
10- Khả kham 可堪: ý nói làm sao có thể chịu đựng được.
11- Cô quán 孤館: quán trọ cô đơn. Khách quán cô tịch. Cô quán bế:
giam mình trong cô quán.
12- Đỗ quyên 杜鵑: Chim cuốc. Tục truyền tiếng chim cuốc kêu gợi lên lòng
nhớ quê hương.
13- Dịch ký mai hoa 驛寄梅花: thành ngữ này
xuất xứ từ bài thơ “Tặng Phạm Diệp Thi 贈范曄詩” của Lục Khải 陸凱 (đời
Nam Bắc Triều) làm để tặng người bạn là Phạm Diệp 范曄:
折梅逢驿使,Chiết mai phùng dịch sứ, Bẻ cành mai gặp người đưa thư,
寄与陇头人。Ký dữ Lũng đầu nhân. Gửi cho người ở Lũng Đầu.
江南无所有,Giang Nam vô sở hữu, Vùng Giang Nam không có gì cả,
聊寄一枝春。Liêu ký nhất chi xuân. Hãy gửi một cành xuân.
Về đời Tống có sách chép lại
chuyện này và cho rằng Lục Khải từ Giang nam đã gửi 1 cành hoa mai kèm theo 1 bài
thơ đến tặng Phạm Diệp ở Tràng An. Thành ngữ này nói lên tình bạn thắm thiết giữa
2 người.
14- Ngư truyền xích tố 魚傳尺素: Trong bài thơ “Ẩm mã trường thành quật hành 飲馬長城窟行” của Thái Ung 蔡邕 (hoặc
của Vô danh thị) đời Đông Hán 東漢có câu:
Vì vậy ngư truyền xích tố có
nghĩa là truyền đạt thơ tín, cũng có nghĩa là nhận được lời thăm hỏi của bạn bè,
người thân.
Cũng có người cho rằng ngày xưa
thư tín thường bỏ vào trong 1 cái hộp bằng gỗ. Hộp này được khắc chạm thành hình
con cá vì vậy mới có thanh ngữ này.
15- Thế 砌: chồng chất.
16- Sâm giang 郴江: tên sông, nguyên phát từ Hoàng Sầm sơn 黄岑山, hạ lưu chẩy vào Tương giang 湘江.
17- Hạnh tự 幸自: vốn từ, vốn là.
18- Nhiễu 繞: vòng quanh, vòng vo quanh, vây quanh.
19- Vi thùy爲誰: vì ai, vì cái gì?
20- Tiêu Tương 潇湘: Tiêu thủy và Tương thủy là 2 con sông ở tỉnh Hồ Nam,
TH. Hạ lưu 2 sông này họp lại với nhau, có khi gọi là Tương giang, có khi gọi là
Tiêu giang.
21- Vi thùy lưu hạ Tiêu Tương
khứ 為誰流下瀟湘去: Vì cái gì mà chẩy vào sông Tiêu Tương 瀟湘. Ý nói con sông Sâm giang cũng không chịu đựng được tịch
mịch huống chi là người.
Dịch Nghĩa:
Bài từ theo điệu Đạp sa hành
của Tần Quan.
Sương mù che khuất lâu đài,
Ánh trăng làm cho bến nước nhìn
mờ ảo.
Nhìn thật xa không thấy Đào
Nguyên ở đâu.
Làm sao chịu đựng được khi
giam mình trong quán trọ cô đơn ở thời tiết lạnh của mùa xuân.
Trong tiếng kêu của chim cuốc
dưới ánh tà dương chiều.
Lời hỏi thăm của bạn ở xa,
Thư tín gửi đến.
(Càng làm cảm thấy) chất chồng
lên thành mối hận (cô đơn )này vô hạn.
Sâm giang vốn từ vây quanh Sâm
sơn,
Vì sao lại chẩy vào dòng Tiêu
Tương (vì tịch mịch huống chi là người)
Phỏng Dịch
1 Đạp Sa Hành - Quán Vắng Nhớ bạn
Sương phủ lâu đài,
Trăng mờ bến đỗ.
Đào nguyên ngóng kỹ không còn
chỗ.
Chịu sao xuân lạnh quán cô đơn,
Cuốc kêu trong ánh chiều tan
vỡ.
Gửi cánh hoa mai,
Cá đưa thước lụa.
Chất chồng mối hận vô cùng số.
Sông kia vốn phát từ sơn lâm,
Vì đâu nhập với dòng Tương nọ.
2 Quán Vắng Nhớ Bạn
Sương đêm phủ kín lâu đài,
Trăng mờ bến đỗ tìm hoài Đào
nguyên.
Lạnh đầy quán vắng cô miên,
Tà dương chìm xuống đỗ quyên than
đời.
Cá đưa lụa, gửi cành mai,
Chất chồng bất tận hận này chứa
chan.
Sâm giang vốn nhiễu Sâm san,
Vì đâu chẩy xuống Tương giang
một dòng.
HHD 6-2019
Bản Dịch của Lộc Bắc
Đạp Sa Hành - Tần Quan
1-
Sương phủ lâu đài
Trăng mờ bến đỗ
Mút mắt Đào Nguyên nơi nao chỗ?
Khó kham nơi quán trọ xuân
tàn
Trong tà dương tiếng kêu chim
Đỗ.
Trạm gởi hoa mai
Cá giao lụa nhỏ
Chất chứa thành hận này vô số
Sông Sâm uốn khúc quanh núi
Sâm
Vì sao trôi xuống Tiêu Tương
đổ?
2-
Sương phủ dinh, trăng mờ bến
đỗ
Trông ngút ngàn, đâu chỗ Đào
Nguyên?
Khó kham quán vắng xuân miên
Trong tà dương muộn tiếng
quyên bên chùa
Trạm gởi hoa, cá đưa lụa nhỏ
Chất chứa thành, vô số hờn
căm
Sông Sâm uốn lượn núi Sâm
Vì sao đổ xuống ngang tầm
Tiêu Tương !?
Lộc Bắc
Jul23
No comments:
Post a Comment