江神子 - 張舜民 Giang Thần Tử -
Trương Thuấn Dân
(癸亥陳和叔會于賞心亭)(Quý
hợi Trần Hòa Thúc hội vu Thưởng tâm đình)
七朝文物舊江山。 Thất triều văn vật cựu giang san.
水如天。 Thủy như thiên.
莫憑欄。 Mạc bằng lan.
千古斜陽,無處問長安。Thiên cổ tà
dương, Vô xứ vấn Trường An.
更隔秦淮聞舊曲, Cánh
cách Tần Hoài văn cựu khúc,
秋已半, Thu
dĩ bán,
夜將闌。 Dạ tương lan.
爭教潘鬢不生斑。 Tranh giao Phan mấn bất sinh ban.
斂芳顏。 Liễm phương nhan.
抹麼弦。 Mạt
ma huyền.
須記琵琶,子細說因緣。Tu ký tỳ bà, Tử
tế thuyết nhân duyên.
待得鸞膠腸已斷, Đãi
đắc loan giao trường dĩ đoạn,
重別日, Trùng
biệt nhật,
是何年。 Thị hà niên.
Chú Thích
1- Giang thần tử 江神子: tên từ bài, tên khác là giang thành tử 江城子, thủy tinh liêm水晶帘,
đơn điệu hoặc song điệu, bình bận hoặc trắc vận. Bài này là song điệu, 70 chữ,
bình vận. Cách luật:
X B X T T B B vận
T B B vận
T B B vận
X T X B, X T T B B vận
X T X B B T T cú
B X T cú
T B B vận
X B X T T B B vận
T B B vận
T B B vận
X T X B, X T T B B vận
X T X B B T T cú
B X T cú
T B B vận
B: bằng thanh; T: trắc thanh;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Quý hợi 癸亥: năm âm lịch quý hợi.
3- Trần Hòa Thúc 陳和叔: vốn tên là Trần Mục 陳睦, tiến sĩ, bạn của tác giả.
4- Thưởng tâm đình 賞心亭: tại tỉnh Kim Lăng 金陵 (Nam Kinh 南京, TH) là chỗ ngắm cảnh huớng về sông Tần Hoài 秦淮.
5- Thất triều 七朝: Văn chương thường hay nói tới lục triều 六朝 gồm Đông
Ngô 東吳, Đông Tấn 東晉, Tống 宋, Tề 齊, Lương 梁, Trần 陳 đã liên tục thay phiên nhau ngự trị vùng giang nam. Tác
giả dùng chữ “Thất triều 七朝” có lẽ muốn gồm cả
“Nam Đường 南唐” chăng?
6- Thủy như thiên 水如天: nước phản ánh mầu trời nên trời và nước cùng một mầu.
7- Bằng lan 憑欄: dựa lan can.
8- Thiên cổ tà dương 千古斜陽: ánh tà dương từ ngàn xưa đến nay.
9- Vô xứ 無處 = vô
nhất xứ 無一處: không có một xứ nào. Trong bài này chữ vô xứ hàm nghĩa
“Không có lý do nào”, “Không có dịp nào”.
10- Cựu khúc 舊曲: tức là bài hát Ngọc thụ hậu đình hoa 玉树後庭花 do
Nam triều Trần hậu chủ 南朝陳後主 sáng tác được người
đời sau xem là một bài ca vong quốc. Cánh cách Tần Hoài văn cựu khúc: Tác giả mượn
ý bài thơ Bạc Tần Hoài 泊秦淮 của Đỗ Mục 杜牧 để nói
lòng tiếc nuối các triều đại đã qua:
“煙籠寒水月籠沙,Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa,
“夜泊秦淮近酒家。Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.
“商女不知亡國恨,Thương nữ bất tri vong quốc hận,
“隔江猶唱後庭花。Cách giang do xướng Hậu đình hoa.”
Khói bao trùm nước lạnh,
ánh trăng bao trùm cát,
Đêm đến, đậu thuyền ở bến sông
Tần Hoài, gần quán rượu.
Gái buôn không biết sầu
vong quốc, (Nam triều cũ đã mất về nhà Tùy, Đường)
Cách sông còn hát khúc Hậu
đình hoa.
11- Dạ tương lan 夜將闌: đêm sắp cạn, sắp hết.
12- Tranh 爭: sao, thế nào. Giao 教:
làm cho, để cho.
13- Phan mấn (tấn) 潘鬓: mái tóc của họ Phan. Phan Nhạc 潘岳 đời Tấn晉, còn gọi là Phan An 潘安, có văn tài và nghi dung đẹp trai, khi 30 tuổi đã bắt
đầu có tóc bạc. Sau này văn chương dùng chữ Phan mấn để chỉ người trung niên có
tóc hoa râm.
14- Sinh ban 生斑: sinh ra lẫn lộn đen và trắng.
15- Mạt 抹: một kiểu gẩy đàn tỳ bà.
16- Ma huyền 麼弦: hay còn gọi là yêu huyền幺弦,
là dây đàn thứ 4 và nhỏ nhất của cây đàn tỳ bà 琵琶,
phiếm chĩ đàn tỳ bà.
17- Tử tế 子细 = tử
tế 仔细: kỹ lưỡng.
18- Nhân duyên 因缘: tiếng nhà Phật, chỉ cái nguyên nhân đã gây ra cái hậu
quả nhận được.
19- Loan giao 鸞膠: chất keo chế bằng cánh chim Loan. Truyện kể đời vua
Hán Võ đế 漢武帝, người tiên ở Phụng Lân Châu 鳳麟州 nơi Tây Hải 西海, dâng vua chất loan giao. Vua dùng để nối 2 đoạn dây đàn
bị đứt, rất tốt. Vua gọi là “Tục huyền giao 续弦胶”.
Về sau người ta dùng chữ “tục huyền” để chỉ người đàn ông đã góa vợ mà lấy vợ lần
nữa.
Dịch Nghĩa
(Tác giả làm bài này trong
lúc bị triều đình biếm chức đầy đi xa).
Tác giả ghi chú: năm quý hợi,
cùng Trần Hòa Thúc gặp gỡ trên Thưởng Tâm Đình.
Giang sơn cũ là chỗ văn vật,
nơi bẩy triều đại đã nối tiếp nhau cai trị (nay đã không còn).
Nước với trời cùng một mầu.
(tả cảnh đẹp của nước non NamTriều)
Chớ nên dựa vào lan can. (Bất
nhẫn dựa lan can trông xa để rồi buồn vì giang sơn đổi thay, đời mình thay đổi).
Ánh tà dương chiếu trên đất này
từ ngàn xưa đến nay,
(Mình) không có lý do gì để hỏi
(chuyện chính sự ở) kinh đô. (Không được triều đình dùng nữa)
Lại cách sông Tần Hoài nghe hát
bài “Hậu đình hoa”. (thêm 1 nỗi buồn hoài cổ)
Mùa thu đã qua đi 1 nửa,
Đêm đã sắp cạn.
Làm sao mà tóc tôi không thành
hoa râm?
Nét mặt xịu xuống.
Gẩy đàn tỳ bà.
Hồi nhớ lại tiếng tỳ bà (hoan
lạc) năm xưa, kỹ lưỡng nghĩ về nhân duyên của nhà Phật (vì sao nên nỗi).
Chờ được loan giao để nối dây
đàn (kỳ đãi tới ngày triều đình trọng dụng lại, mình cũng như dây đàn đứt được
nối lại) thì tâm hồn đã buồn tan nát, (biết đến bao giờ?)
Lúc gặp lại nơi từ biệt bạn bè
năm xưa,
(Sẽ) là năm nào? (Khi nào mới
về lại chỗ năm xưa mình đã từ biệt bạn bè. Tác giả không dùng chữ “trùng phùng”
mà dùng chữ “trùng biệt” để ám chỉ trùng phùng)
Phỏng Dịch
Kiếp Lưu Đầy
Bẩy triều văn vật giang sơn cũ,
Nước biếc trời không một sắc mầu.
Lan can chớ tựa khơi tâm sự,
Thiên cổ tà dương đượm nỗi sầu.
Chính trị kinh đô chẳng có ta,
Cách sông nghe khúc Hậu đình
hoa.
Thu đi thấp thoáng mùa còn nửa,
Đêm sắp về khuya bóng nguyệt
xa.
Tóc xanh sao chẳng hóa hoa râm,
Bao
nét ưu tư mặt lạnh câm.
Dạo khúc tỳ bà tìm ấm cúng,
Ngày vui quá khứ với tình thâm.
Ngồi đây nghiền ngẫm thuyết
nhân duyên,
Hậu quả vai mang trước nhãn
tiền.
Chờ được phục hồi hồn đứt đoạn,
Khi nào trùng biệt bạn vong
niên?
HHD 11-2020
Bản Dịch của Lộc Bắc
Giang Thần Tử
1-
Bẩy triều văn vật cựu giang
san
Trời nước liền
Chớ dựa hiên
Từ xưa nắng tàn, chẳng gì hỏi
Trường An
Lại cách Tần Hoài nghe khúc
cũ.
Thu quá nửa
Đêm sắp tàn!
Làm sao tóc ta bạc chẳng lan
Xụ dung nhan
Gẩy dây đàn
Nhớ tiếng tỳ bà, kỹ lưỡng
nghĩ nhân duyên
Chờ được keo loan ruột đà đứt
Ngày gặp lại
Năm nao gần?
2-
Bẩy triều văn vật nước non
Đất trời liền lạc, hiên son
chớ kề
Nắng tà từ cổ đề huề
Trường An đừng hỏi, chốn quê
một thời
Cách sông nghe khúc Tần Hoài
Thu đà quá nửa, đêm dài sắp
qua!
Làm sao tóc chẳng nhuốm hoa
Nét mày xụ xuống tỳ bà tiếng
lên
Nghe đàn gợi nhớ nhân duyên
Keo loan chờ nối, ruột bên đứt
lìa
Trùng phùng tại chốn cách
chia
Năm nao gần gũi đi về có nhau
!?
LB
Jan21
No comments:
Post a Comment