賀新郎 - 劉克莊 Hạ Tân Lang – Lưu
Khắc Trang
九日 Cửu
nhật
湛湛長空黑, Trạm trạm trường không hắc.
更那堪、斜風細雨, Cánh na
kham, tà phong tế vũ,
亂愁如織。 Loạn sầu như chức.
老眼平生空四海, Lão
nhãn bình sinh không tứ hải,
賴有高樓百尺。 Lại hữu cao lâu bách xích.
看浩蕩、千崖秋色。 Khán hạo đãng, thiên nhai thu sắc.
白髮書生神州淚, Bạch
phát thư sinh thần châu lệ,
盡凄涼不向牛山滴。 Tận thê lương bất hướng ngưu sơn trích.
追往事, Truy
vãng sự,
去無迹。 Khứ vô tích.
少年自負凌雲筆, Thiếu niên tự phụ lăng vân bút,
到而今、春華落盡, Đáo nhi
kim, xuân hoa lạc tận,
滿懷蕭瑟。 Mãn hoài tiêu sắt.
常恨世人新意少, Thường
hận thế nhân tân ý thiểu,
愛説南朝狂客。 Ái thuyết nam triều cuồng khách.
把破帽、年年拈出。 Bả phá mạo, niên niên niêm xuất.
若對黃花孤負酒, Nhược
đối hoàng hoa cô phụ tửu,
怕黃花也笑人岑寂。 Phạ hoàng hoa dã tiếu nhân sầm tịch
鴻去北, Hồng
khứ bắc,
日西匿。 Nhật tây nặc.
Chú Thích
1- Hạ tân lang 賀新郎: tên bài từ. Tên cũ là “Hạ tân lương 賀新凉”. Bài này có 116 chữ, đoạn trước và đoạn sau đều có 6 trắc vận. Cách luật của bài này tương đồng với cách luật của Tân Khí Tật 辛棄疾:
X T B B T vận
T B B, X B X T cú
T B B T vận
X T X B B X T cú
X T B B X T vận
X T T, B B X T vận
X T X B B X T cú
T X B X T B B T vận
X T T cú
T B T vận
X B X T B B T vận
T B B, X B X T cú
T B B T vận
X T X B B X T cú
X T B B X T vận
X T T, B B X T vận
X T X B B X T cú
T X B X T B B T vận
X T T cú
T B T vận
B: bình thanh; T: trắc thanh;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Cửu nhật 九日: tiết trùng dương ngày 9 tháng 9 âm lịch.
3- Trạm trạm 湛湛: sâu xa.
4- Tà phong tế vũ 斜風細雨: gió nhẹ mưa nhỏ.
5- Bình sinh 平生: suốt đời, từ trước đến nay trong đời.
6- Không tứ hải 空四海: (nhìn) khắp bốn biển.
7- Cao lâu bách xích 高樓百尺: có thể tác giả đã mượn câu nói của Lý Bạch “Nguy lâu
cao bách xích 危樓高百尺: lầu cao 100 thước” để chỉ rằng mình đã lên tới nơi
thật cao.
8- Hạo đãng 浩蕩 = quảng
đại khoáng viễn 廣大曠遠: rộng lớn xa khắp.
9- Bạch phát thư sinh 白髮書生: thư sinh tóc bạc, tác giả chỉ chính mình.
10- Thần Châu 神州: vùng đất bị quân Kim chiếm đóng.
11- Ngưu sơn 牛山: ở huyện Lâm Chuy 臨淄,
tỉnh Sơn Đông, TH. Tác giả dùng điển tích Tề Cảnh Công 齊景公 lên núi Ngưu Sơn
ngắm cảnh rồi rơi lệ than rằng mình không được trường sinh để hưởng thụ phú quý
trên giang sơn gấm vóc. Tể tướng Án Anh 晏嬰 tâu rằng nếu cổ
nhân mà trường sinh bất lão thì làm gì có ngài ngày nay.
12- Trích 滴: giọt nước rơi, ám chỉ rơi nước mắt.
13- Vô tích 無迹: không có tung tích.
14- Lăng vân 凌雲: lên tận tầng mây. Lăng vân bút 凌雲筆: ngọn bút tung hoành, ám chỉ văn chương khí thế can vân.
15- Xuân hoa 春華 = thanh xuân niên hoa 青春年華: tuổi trẻ.
16- Tiêu sắt 蕭瑟: thê lương buồn tẻ.
17- Tân ý thiểu 新意少: ít có tư tưởng mới.
18- Nam triều cuồng khách 南朝狂客: câu chuyện người Mạnh Gia 孟嘉 đời
Đông Tấn 東晋 cùng các quan lên núi chơi trong ngày Trùng cửu, bất
ngờ bị gió thổi rơi mũ mà vẫn không biết sự thất lễ của mình. Có người nhặt mũ đưa
lại đồng thời viết vài câu văn châm biếm. Ông cũng viết vài câu văn rất ý nhị đáp
lại khiến mọi người thán phục.
19- Phá mạo 破帽: mất mũ.
20- Niêm xuất 拈出: dọn ra, đem ra.
21- Hoàng hoa 黃花: hoa cúc vàng.
22- Sầm tịch 岑寂: cô tịch, tịch mịch, cô đơn tẻ nhạt.
23- Nặc 匿: ẩn giấu.
Dịch Nghĩa
Ngày Trùng cửu.
Trời không u ám đen tối,
Lại khó chịu đựng mưa bụi gió
mơn man,
Những nỗi sầu (trong tôi) loạn
(đan vào nhau) như dệt.
Con mắt (tôi) đã già đời nhìn
khắp bốn biển,
Nhờ có lầu cao trăm thước.
Trông ngàn núi rộng lớn trong
sắc mầu mùa thu.
Chàng thư sinh tóc bạc đã rơi
lệ vì phần đất bị luân hãm bởi quân Kim.
Buồn hết đỗi nhưng không phải
như (Tề Cảnh Công) khóc ở Ngưu sơn.
Tìm vãng sự (những vinh nhục
thịnh suy từ xưa),
Đi không tung tích (đã không
còn).
Người thiếu niên tự phụ có tài
văn chương (có ngọn bút khuấy mây),
Đến nay, tuổi niên hoa đã hết,
Tràn ngập tâm hồn buồn bã cô đơn.
Thường hận người đời ít có ý
mới,
(Mà chỉ) thích nói về người
cuồng khách thời Nam triều.
Đem chuyện mất mũ ra hằng năm
(mỗi khi nói về ngày trùng cửu).
Như nếu mình ngắm hoa cúc vàng
(mùa thu) mà không uống rượu,
Sợ hoa vàng sẽ cười mình cô đơn
tịch mịch.
Chim hồng nhạn bay về phương
bắc,
Mặt trời chìm xuống ở phương
tây.
Phỏng Dịch
1 Hạ Tân Lang – Ngày Thu Than Vãn
Thăm thẳm trời đen hắc.
Lại kham sao, bụi mưa gió bấc,
Loạn sầu đan mắc.
Già lão trong đời nhìn tứ hải,
Nhờ có lầu cao trăm thước.
Trông rộng lớn, ngàn trùng
thu sắc.
Tóc trắng thư sinh sơn hà lệ,
Tận thê lương chẳng phải tham
sinh khóc.
Tìm dĩ vãng,
Không tung tích.
Thiếu niên tự phụ văn chương
bút.
Đến hôm nay, niên hoa đã hết,
Tâm hồn se sắt.
Vẫn hận người đời nghèo ý mới,
Thích nói xưa kia cuồng
khách.
Chuyện mất mũ, năm nào cũng
nhắc.
Như đối cúc vàng không uống
rượu,
Sợ hoàng hoa cười diễu mình
cô tịch.
Nhạn hướng bắc.
Ngày tàn bặt.
2 Ngày Thu Than Vãn
Khung trời thăm thẳm tối đen,
Kham sao mưa bụi gió thêm đan
sầu.
Mắt già bốn biển nhìn sâu,
Bình sinh nhờ có cao lâu mịt
mù.
Trông xa ngàn núi sắc thu,
Thư sinh tóc bạc quốc thù lệ
rơi.
Thê lương tấc dạ đầy vơi,
Chẳng vì tham sống như người
ngày xưa.
Tìm dĩ vãng đã xa mờ,
Thiếu niên tự phụ văn thơ khuấy
trời.
Niên hoa nay đã tả tơi,
Tâm hồn se sắt hận người thế
gian.
Nghèo ý mới chỉ mơ màng,
Cuồng khách rơi mũ nói quàng bấy
nay.
Đối hoàng hoa không chén đầy,
Sợ hoàng hoa lại diễu cười chê
bai.
Người cô lẻ nỗi buồn dài,
Nhạn bay hướng bắc non đoài
hoàng hôn.
HHD 11-1023
No comments:
Post a Comment