菩薩蠻 - 李白 Bồ Tát
Man -
Lý Bạch
(Hoặc Vô Danh Thị)
平林漠漠煙如織, Bình lâm mạc mạc yên như chức,
寒山一帶傷心碧。 Hàn san nhất đái thương tâm bích.
暝色入高樓, Minh sắc nhập cao lâu,
有人樓上愁。 Hữu nhân lâu thượng sầu.
玉階空佇立, Ngọc
giai không trữ lập,
宿鳥歸飛急。 Túc
điểu quy phi cấp.
何處是歸程, Hà xứ thị quy trình,
長亭更短亭。 Trường đình cánh đoản đình.
Chú Thích
(1) Sách "Thiệu Thị Văn Kiến
Hậu Lục 邵氏聞見後錄" của Thiệu Bác 邵博 sống vào thời kỳ giữa Nam Bắc Tống và sách "Đường Tống Chư Hiền Tuyệt Diệu
Từ Tuyển 唐宋諸賢絕妙詞選 " của Hoàng Thăng 黃升 đời Nam Tống đều chép bài ức tần nga và bài bồ tát man "Bình lâm mạc mạc"
là của Lý Bạch. Từ đời Minh về sau, nhiều tác giả phản bác điều này viện lẽ
không tìm thấy trong "Lý Bạch Toàn Tập".
Từ điệu Bồ tát man có 44
chữ, 8 câu, 4 vận khác nhau, sắp xếp như sau:
câu 1 và 2 có vận trắc, mỗi câu có 7 chữ.
X B
X T B
B T (vận),
B B
T T B
B T (vận).
câu 3 và 4 có vận bằng, mỗi câu có 5 chữ.
T T
T B B (đổi vận),
T B
B T B (vận).
câu 5 và 6 có vận trắc, mỗi câu có 5 chữ.
X B
B T T (đổi vận),
X T
B B T (vận).
câu 7 và 8 có vận bằng, mỗi câu có 5 chữ,
X T T B B (đổi
vận),
X B X T B (vận).
X = bất luận; B = bình thanh;
T = trắc thanh.
Sau mỗi 2 câu phải đổi vận.
(2)Bình lâm: Hình dung khu rừng
mọc trên vùng đất phẳng, trông từ xa.
(3)Mạc mạc 漠漠:có nhiều nghĩa:
1. yên tĩnh lặng lẽ (mạc mạc khinh hàn
thượng tiểu lâu 漠漠輕寒上小樓 = trong yên tĩnh hơi lạnh, bước lên lầu)
2. dày đặc la liệt (mạc mạc thủy điền
phi bạch lộ 漠漠水田飛白鷺 = ruộng nước dày đặc la liệt, cò trắng bay)
3. mờ mịt hôn ám như: thiên mạc mạc 天漠漠 = trời mông lung, vũ mạc mạc 雨漠漠 = mưa
mờ mịt.
4. quảng khoát như hoang nguyên mạc mạc
荒原漠漠 = bình nguyêng hoang dã rộng mênh mông.
(4)Mạc mạc yên như chức 漠漠 烟如織 khói chiều dầy đặc
trông như dệt.
(5)Thương tâm 傷心:đau lòng, đau buồn hay vui sướng đều có thể dùng chữ
"thương tâm".
(6)Minh sắc 暝色:bóng tối, bóng đêm.
(7)Ngọc giai 玉階:thềm ngọc, chữ ngọc làm cho danh từ "thềm"
thêm đẹp đẽ. Bản khác chép Ngọc thê 玉梯: thang ngọc.
(8)Trữ lập 佇 立:đứng lâu.
(9)Túc điểu 宿鳥: chim đã đến lúc muốn ngủ, chim buồn ngủ.
(10)Quy trình 歸程: đường về.
(11)Trường đình canh đoản
đình: cứ mỗi10 dặm có trường đình, 5 dặm có đoản đình; ám chỉ đường xa diệu vợi.
Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu Bồ tát man của
Lý Bạch.
Cảnh rừng bằng phẳng có nhiều
khói dày đậm uốn lượn trông như dệt với nhau.
Hàn san một giải mầu xanh biếc
thương tâm.
Bóng tối vào lầu cao.
Có người trên lầu buồn.
Thềm ngọc đứng trơ mãi.
Chim tối bay về vội.
Đường về là nơi nào?
Trường đình lại đến đoản đình
Phỏng Dịch
1 Bồ Tát Man - Đường Về
Rừng bằng khói dệt chiều tha
thiết,
Hàn san một dẫy buồn xanh biếc.
Bóng tối phủ lầu cao,
Có người đang nhuốm sầu.
Trước thềm yên ủ rũ,
Vội vã chim về tổ.
Đường đến chốn quê hương,
Trùng trùng ngàn dặm trường.
2 Đường Về
Bình lâm mờ mịt khói bay,
Hàn San núi biếc như lây muộn
phiền.
Lầu cao bóng tối triền miên,
Người buồn đứng lặng trước thềm
ngẩn ngơ.
Chim bay tìm tổ chiều mơ,
Đường về vời vợi chơ vơ bóng
hình.
Trường đình lại tới đoản
đình.
Cô thôn viễn thủy, nhớ tình cố
hương.
HHD Jan-09-2017
LỐI VỀ…
(I)
Rừng trải mênh
mông khói thêu dệt
Núi buồn một dãy
xanh biêng biếc
Bóng tối tỏa lầu
cao
Người trên đó ôm
sầu
Thềm ngọc im chờ
đợi
Chim chiều bay về
vội
Nơi nao chốn quê
mình?
Đoản đình lại trường
đình!!
(II)
Rừng già dâng
khói dệt
Núi lạnh sầu xanh
biếc
Bóng tối phủ lầu
cao
Người buồn trông
ngóng miết
Thềm ngoan đứng lặng
yên
Chim mỏi chưa về
hết
Tự hỏi đâu quê
nhà
Nghìn trùng mây nối
tiếp!!
Lộc Bắc Jan17
ĐƯỜNG XA
Rừng vắng
tỏa khói mây
Núi xanh
lạnh dâng đầy
Lầu cao chiều
xuống thấp
Lặng buồn
ngắm hàng cây
Chim mõi
cánh bay về
Đường xa
dài lê thê
Quê nhà tìm
chưa thấy
Thương nhớ
tỏa sơn khê .
Bạch nga
Vọng quê nhà
Rừng xa lặng phủ khói sương
Núi xanh lạnh lẽo như vương nỗi sầu
Bóng đêm xâm nhập lầu cao
Người đứng lòng dạ nôn nao buồn phiền
Chim bay về gấp tổ êm
Hoài về quê cũ chẳng yên nỗi lòng
Đường trường quá thể viễn vông
Ngàn trùng xa cách nhớ mong miệt mài.
Đàm Giang
No comments:
Post a Comment