桂枝香 - 王安石 Quế Chi hương - Vương An Thạch
登臨送目, Đăng lâm tống mục,
正故國晚秋, Chính
cố quốc vãn thu,
天氣初肅。 Thiên khí sơ túc.
千里澄江似練, Thiên
lý trừng giang tự luyện,
翠峰如簇。 Thúy
phong như thốc.
歸帆去棹殘陽裏, Quy phàm
khứ trạo tàn dương lý,
背西風、酒旗斜矗。Bối tây phong tửu kỳ tà súc.
彩舟雲淡, Thải châu vân đạm,
星河鷺起, Tinh
hà lộ khởi,
畫圖難足。 Họa
đồ nan túc.
念往昔、繁華競逐,Niệm vãng tích phồn hoa cạnh trục,
嘆門外樓頭, Thán môn ngoại lâu đầu,
悲恨相續。 Bi hận tương tục.
千古憑高, Thiên
cổ bằng cao,
對此漫嗟榮辱。 Đối thử mạn ta vinh nhục.
六朝舊事隨流水, Lục triều
cựu sự tùy lưu thủy,
但寒煙、芳草凝綠。Đản hàn yên phương thảo ngưng
lục.
至今商女, Chí
kim thương nữ,
時時猶唱, Thời
thời do xướng,
後庭遺曲。 Hậu đình di khúc.
Chú Thích
1- Quế chi hương 桂枝香: tên từ điệu, còn gọi là sơ liêm đạm nguyệt 疏帘淡月, gồm 101 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn 10 câu, 5 trắc vận. Cách luật:
X B X T vận
T X T X B cú
X X B T vận
X T B B T T cú
T B B T vận
X B X T B B T cú
T B B, X X B T vận
T B B T cú
X B X T cú
X B B T vận
T X X, B B T T vận
T X T B X cú
X X B T vận
X T B B cú
X T T B B T vận
X B X T B B T cú
T B B X X B T vận
X B X T cú
X B X X cú
T B B T vận
B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Đăng lâm 登临 = đăng sơn lâm thủy 登山临水: lên núi xuống sông, du lãm sơn thủy. Trong bài này, chữ "đăng lâm" chỉ có nghĩa là "lên cao".
3- Tống mục 送目:đưa mắt nhìn xa.
4- Cố quốc 故国:Nam Triều, cố đô
Kim Lăng (nay Nam Kinh, TH) trải 6 triều đại từ năm 222 đến năm 589.
5- Sơ túc 初肅: thiên khí bắt đầu lạnh và khoan khoái, thảo mộc tàn
rụng.
6- Thiên lý trừng giang tự
luyện 千里澄江似練: sông dài ngàn dặm trong trẻo như 1 tấm lụa. Trừng
giang 澄江= sông Trường giang trong vắt. Luyện 練: lụa trắng.
7- Thúy phong 翠峰: núi biếc.
8- Thốc 簇: tụ họp lại với
nhau. Như thốc 如簇: các ngọn núi như tụ lại 1 chỗ.
9- Quy phàm khứ trạo 歸帆去棹: thuyền bè vãng lai. Khứ trạo 去棹: dừng chèo.
10- Bối tây phong 背西風: = nghinh trước tây phong 迎着西風: đón gió thu.
11- Tà súc 斜矗 = tà sáp 斜插: cắm nghiêng.
12-Thải châu 彩舟: con thuyền trang sức hoa lệ.
13- Vân đạm 雲淡: mây mỏng, trời quang đãng.
14- Tinh hà 星河 hay
Thiên hà 天河 ám
chỉ sông Tần Hoài 秦淮.
15- Lộ 鹭 = bạch
lộ 白鹭 con
cò trắng. Có người nói chữ này ám chỉ miếng đất Bạch lộ châu 白鹭洲 ở chỗ
sông Trường giang và sông Tần Hoài giao nhau.
16- Tinh hà lộ khởi 星河鹭起: cò trắng từ cồn cát giữa sông bay lên.
17- Nan túc 難足: khó biểu hiện 1 cách hoàn mỹ.
18- Họa đồ nan túc 畫圖難足: dù có vẽ lại cũng khó biểu hiện được sự kiện.
19- Vãng tích: ngày đã qua.
20- Cạnh trục 競逐: tranh nhau đeo đuổi.
21- Phồn hoa cạnh trục 繁華競逐: tranh
thủ sống hào hoa. Bản khác chép Hào hoa cạnh trục 豪華競逐 cùng 1 ý nghĩa.
22- Môn ngoại lâu đầu 門外樓頭: Lấy chữ từ bài thơ “Đài thành khúc 台城曲” của Đỗ Mục 杜牧: “Môn ngoại Hàn Cầm
Hổ, Lâu đầu Trương Lệ Hoa門外韓擒虎,樓頭張麗華
= Tướng Hàn Cầm Hổ ở
ngoài cổng, Quý phi Trương Lệ Hoa ở trên lầu”. Vào thời Nam Bắc triều, nước Trần
chiếm cứ vùng đất Việt gồm Chiết Giang, Quảng Đông, Quảng Tây, kể cả quận Giao
Chỉ, đóng đô ở Kim lăng (Nam Kinh bây giờ). Vua cuối cùng của nước Trần là Trần
Thúc Bảo 陳叔寶 mà người đời gọi là Trần Hậu Chủ 陳後主 bỏ
phế triều chính, say mê quý phi là Trương Lệ Hoa 張麗華. Vua Bắc
Triều là Tùy Văn Đế sai con làTấn vương 晋王 Dương Quảng 杨廣 đem quân chinh phạt. Khi tướng nhà Tùy là Hàn
Cầm Hổ 韓擒虎 (nguyên tên là Báo 豹)
đã đến cửa thành phía nam của thành Kim Lăng 金陵 là Chu Tước môn
朱雀門 thì Trần Hậu chủ và quý phi Trương Lệ Hoa còn đang vui
chơi ở trên lầu Kết Ỷ Các 结绮阁. Hai người bị bắt
cùng với 1 bà vợ nữa là Khổng Quý Tần 孔贵嬪. Cả 2 bà phi đều bị
xử chém.
Môn 門 = Chu Tước môn 朱雀門, cổng nam của thành kim Lăng; Lâu 樓 = Kết Ỷ Các 结绮阁, nơi Trần Hậu Chủ và phi tần đến yến tiệc ca hát vui chơi.
23- Bi hận tương tục 悲恨相续: mối bi hận của 6 triều đại nối tiếp nhau hưng vong.
24- Bằng cao 憑高 = Đăng
cao 登高, tác giả lên chỗ cao nhìn ra xa.
25- Mạn ta vinh nhục 漫嗟荣辱: tác giả cảm than sự hưng vong của lịch sử.
Mạn ta 漫嗟 = mạn ta 謾嗟: than thở.
Mạn ta 漫嗟 = mạn ta 謾嗟: than thở.
26- Lục triều 六朝: 6 triều đại kế tiếp nhau cai trị vùng đất Giang Nam
là: Ngô, Đông Tấn, Nam triều Tống, Tề, Lương, và Trần.
27- Thương nữ 商女: ca nữ ở các tửu lâu trà phường.
28- Hậu đình di khúc 後庭遗曲: tức ca khúc “Ngọc thụ hậu đình hoa 玉树後庭花” do Trần Hậu Chủ soạn ra, lời lẽ ai oán nhu nhược. Người
đời sau coi là 1 bài ca vong quốc.
Dịch Nghĩa
Lên lầu cao đưa mắt nhìn xa,
Đất nước cũ (Kim Lăng) chính
vào cuối thu,
Khí trời bắt đầu khoan khoái
dễ chịu.
Dòng Trường giang dài cả ngàn
dặm, trong vắt như 1 tấm lụa trắng.
Những dẫy núi xanh biếc như tụ
lại 1 chỗ.
Thuyền bè qua lại trong ánh sáng
chiều còn sót lại,
Đón ngọn gió thu, cờ của tửu
quán nghiêng ra sừng sững.
Những chiếc thuyền hoa lệ ẩn
hiện trong màn mây khói mờ nhạt.
Cò trắng bay lên từ những cồn
cát trên sông.
Dù có vẽ lại cũng khó miêu tả
được đầy đủ rõ ràng.
Nghĩ đến chuyện xưa, tranh
nhau sống xa hoa,
(Rồi) cảm thán (lúc quân thù đến)
ngoài cổng, trên lầu (vua còn ăn chơi ca hát),
Những mối hận bi thương nối
tiếp nhau.
Lên cao, (mặt đối diện cảnh) từ thiên cổ (đến nay),
Than vãn sự vinh nhục (của các
triều đại hưng vong).
Lịch sử của sáu triều đại
theo dòng nước trôi xuôi,
Chỉ còn khói sương lạnh lẽo, bãi
hương thảo ngưng đọng mầu xanh.
Đến nay, ca nữ,
Thỉnh thoảng còn hát,
Bài ca “Hậu đình di khúc”.
Phỏng Dịch
Hưng Vong
Lên cao nhìn khắp cựu kinh đô,
Khoan khoái trời cao ngày cuối
thu.
Trường giang ngàn dặm trong
như lụa,
Trùng điệp núi xanh biếc mịt
mù.
Thuyền bến vãng lai chiều sắp hết,
Ngọn cờ tửu quán đón tây phong.
Mây mỏng thuyền hoa cò cất cánh,
Bức tranh khó họa được thành công.
Quá khứ phồn hoa đua tửu sắc,
Cửa thành giặc đến chúa vui
chơi.
Mối hận bi thương lại tiếp nối,
Nước non thiên cổ những đầy
vơi.
Sáu Triều vinh nhục đời than thở,
Chuyện cũ theo dòng nước xóa
nhòa.
Khói lạnh cỏ xanh đọng sắc thắm,
Ca nhi còn hát Hậu đình hoa.
HHD 5-2019
No comments:
Post a Comment