渡江雲 - 周邦彥 Độ Giang Vân – Chu Bang Ngạn
晴嵐低楚甸, Tình
lam đê Sở điện,
暖回雁翼, Noãn
hồi nhạn dực,
陣勢起平沙。 Trận thế khởi bình sa.
驟驚春在眼, Sậu
kinh xuân tại nhãn,
借問何時, Tá
vấn hà thời,
委曲到山家。 Ủy khúc đáo sơn gia.
塗香暈色, Đồ
hương vựng sắc,
盛粉飾、爭作妍華。Thịnh phấn
sức, tranh tác nghiên hoa.
千萬絲、陌頭楊柳,Thiên vạn ti, mạch đầu dương liễu,
漸漸可藏鴉。 Tiệm tiệm khả tàng nha.
堪嗟。 Kham ta.
清江東注, Thanh
giang đông chú,
畫舸西流, Họa
khả tây lưu,
指長安日下。 Chỉ
trường an nhật hạ.
愁宴闌、風翻旗尾,Sầu yến lan, phong phiên kỳ vĩ,
潮濺烏紗。 Triều
tiễn ô sa.
今宵正對初弦月, Kim tiêu chánh đối sơ huyền nguyệt,
傍水驛、深艤蒹葭。Bàng thủy
dịch, thâm nghĩ kiêm hà.
沈恨處,時時自剔燈花。Trầm hận xứ,
thời thời tự dịch đăng hoa.
Chú Thích
1- Độ giang vân 渡江雲: tên từ bài. Bài
này có 100 chữ. Đoạn trên có 10 câu với 4 bình vận. Đoạn dưới có 9 câu với 4 bình
vận và 1 diệp vận (cùng vận nhưng thanh trắc).
Cách luật:
X B B T T cú
X B X T cú
X T T B B vận
T X B X T cú
X T B B cú
X T T B B vận
B B X T cú
X X X, X T B B vận
X T X, X B X T cú
X T T B B vận
B B vận
X B X T cú
T T B B cú
T X B X T diệp vận
X X X, B B X T cú
X T B B vận
X B X T B B T cú
X X X, X T B B vận
B T T, X B X T B B vận
B: bình thanh; T: trắc thanh;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Tình lam 晴嵐: ngày tạnh mưa nhưng có sương mù trong núi.
3- Sở điện 楚甸: vùng khoáng dã ở nước Sở.
4- Noãn hồi 暖回: ấm áp quay về, mùa xuân đã về.
5- Nhạn dực 雁翼: cánh chim nhạn.
6- Sậu kinh 驟驚: bất chợt kinh hãi.
7- Tá vấn hà thời 借問何時: xin hỏi đến bao giờ.
8- Ủy khúc 委曲: quanh co khúc khuỷu.
9- Đồ hương 塗香: hay đồ hương 涂香,
còn gọi là “đồ diệu hương 涂妙香”, tập quán của người Ấn Độ
cổ xưa, lấy chất thơm chà xát lên người.
10- Vựng sắc 暈色 = sắc
vựng 色暈: trùng điệp, mầu sắc vằn vè không đều.
11- Phấn sức 粉飾: trang sức, trang điểm.
12- Nghiên hoa 妍華: diễm lệ, hoa lệ.
13- Mạch đầu 陌頭: đầu đường, bên đường.
14- Tàng nha 藏鴉: lùm cây che chở chim quạ.
15- Kham ta 堪嗟: tiếng than, đáng than thay.
16- Thanh giang 清江: tên sông, còn gọi là Di thủy 夷水,
đoạn sông ở tỉnh Hồ Bắc, TH, chẩy vào sông Trường giang. Chữ “thanh giang” cũng
được hiểu là dòng sông trong vắt.
17- Họa khả 畫舸: du thuyền hoa lệ.
18- Nhật hạ 日下: mặt trời đang lặn. Câu “Chỉ Trường An nhật hạ” , tác
giả mượn ý của Vương Bột 王勃 trong bài “Đằng Vương các tự 滕王閣序 : Vọng Trường An ư nhật hạ 望長安於日下” .
19- Yến lan 宴闌: bữa tiệc đã tàn.
20- Kỳ vĩ 旗尾: đuôi cây cờ, ám chỉ bổng lộc của các quan.
21- Triều 潮: sóng thủy triều.
22- Ô sa 烏紗: cái mũ làm bằng lụa đen. Triều tiễn ô sa潮濺烏紗: nước thủy triều rưới ướt mũ lụa đen.
23- Sơ huyền 初弦: mặt trăng khoảng mùng 7 hoặc 8 tháng âm lịch.
24- Thủy dịch 水驛: quán dịch ở gần sông nước hay ở trong nước.
25- Nghĩ 艤: đậu thuyền, đưa thuyền vào bến.
26- Kiêm hà 蒹葭: kiêm=cây lau,
hà (còn đọc là gia) = cây lau non. Kiêm hà: chỉ lau sậy.
27- Dịch 剔: cắt.
28- Đăng hoa 燈花: cái tim đèn khi cháy hết kết thành hình như hoa.
Dịch Nghĩa
Tác giả làm bài này khi đang
trên đường về kinh đô sau thời gian bị đổi đi xa.
Trong ngày tạnh trời, sương núi
xuống thấp trên vùng nước Sở cũ,
Hơi ấm đã về trên cánh nhạn,
(Nhạn) bầy thành trận thế (thành
từng đàn) từ bãi cát phẳng bay lên.
Chợt kinh hãi thấy mùa xuân đã
đến trước mắt,
Xin hỏi bao giờ,
Mới quanh co dần đến nhà
trong vùng núi.
Mùi hương và mầu sắc (muôn
hoa) hỗn tạp,
Trang sức đậm đà, muôn hoa
tranh đẹp.
Ngàn vạn sợi tơ, khóm dương
liễu ở đầu đường,
Dần dần (vươn cao um tùm) có
thể che khuất đàn quạ (đậu trên cành).
Đáng than thở,
Dòng sông Thanh Thủy hướng đông
xuôi,
Thuyền hoa đi về hướng tây,
Nhắm đến Trường An, mặt trời đang
lặn xuống.
Buồn vì bữa tiệc đã tàn, gió
thổi phất phới đuôi cờ (ở đầu thuyền),
Sóng thủy triều làm ướt cái mũ
lụa đen.
Đêm nay chính đối vầng trăng
lưỡi liềm (trên bầu trời),
Bên cạnh quán dịch ở bờ nước,
thuyền đậu sâu trong đám lau lách.
Lúc buồn hận hết sức, thỉnh
thoảng lại tự cắt cái bấc đèn đã tàn.
Phỏng Dịch
1 Độ Giang Vân - Thuyền về
Chớm Xuân
Núi quang sương đất Sở,
Ấm về cánh nhạn,
Cất cánh bãi bình sa.
Bất chợt xuân trước mắt,
Xin hỏi bao giờ,
Quanh núi đến sân nhà.
Mầu mè thơm ngát,
Trang điểm đậm, tranh đẹp
muôn hoa.
Ngàn vạn tơ, đầu đường dương
liễu,
Che được quạ cành xa.
Thế mà!
Đông xuôi Thanh Thủy,
Hướng ngược thuyền sang,
Chỉ Trường An chiều tạ.
Sầu tiệc tan, đuôi cờ gió thổi,
Sóng ướt ô sa.
Đêm nay chính đối trăng treo
khuyết,
Bên quán dịch, lau phủ thuyền
ta.
Khi bội bực, đôi lần tự cắt
đèn hoa.
2 Thuyền về Chớm Xuân
Trời Sở lững lờ sương núi xa,
Ấm về trên cánh nhạn chan
hoà.
Họp trận bay lên từ bãi cát,
Xuân về trước mắt chợt không ngoa.
Quanh quẩn khi nào đến núi
sâu,
Điểm trang hương tạp với muôn
mầu.
Đầu ngõ vạn tơ dương liễu sắc,
Dần che đàn quạ, cành vươn
cao.
Thở than Thanh thủy mãi xuôi
đông,
Tây hướng thuyền hoa đi ngược
dòng.
Trường An tiến phát nắng dần
tắt,
Sầu muộn tiệc tan cảnh vắng
không.
Phơ phất đuôi cờ triều ướt nón,
Đêm nay chính diện mảnh trăng
mơ.
Đậu thuyền quán dịch rừng lau
lách,
Cắt bấc đèn hoa hận ngẩn ngơ.
HHD 03-03-2022
No comments:
Post a Comment