南浦 - 張炎 Nam Phố - Trương
Viêm
春水 Xuân
thủy
波暖綠粼粼, Ba
noãn lục lân lân,
燕飛來, Yến
phi lai,
好是蘇堤才曉。 Hảo tự Tô đê tài hiểu.
魚沒浪痕圓, Ngư
một lãng ngân viên,
流紅去、翻笑東風難掃。Lưu hồng
khứ, phiên tiếu đông phong nan tảo.
荒橋斷浦, Hoang
kiều đoạn phố,
柳陰撐出扁舟小。 Liễu âm xanh xuất thiên chu tiểu.
回首池塘青欲遍, Hồi thủ trì đường
thanh dục biến,
絕似夢中芳草。 Tuyệt tự mộng trung phương thảo.
和雲流出空山, Hòa vân
lưu xuất không sơn,
甚年年、淨洗花香不了?Thậm niên
niên, tịnh tẩy hoa hương bất liễu?
新綠乍生時, Tân
lục sạ sinh thời,
孤村路、猶憶那回曾到。Cô thôn lộ,
do ức na hồi tằng đáo.
餘情渺渺, Dư tình miểu miểu,
茂林觴詠如今悄。 Mậu lâm thương
vịnh như kim thiểu.
前度劉郎歸去後, Tiền độ Lưu
lang quy khứ hậu,
溪上碧桃多少。
Khê
thượng bích đào đa thiểu.
Chú Thích
1- Nam phố 南浦: tên từ bài, nguyên là một khúc hát của Đường giáo phường 唐教坊記, sau dùng làm từ bài. Bài này có thể là trắc vận hoặc bình vận. Tổng cộng bài từ có 105 chữ, cách luật:
X T T B B cú
T X B cú
X X X X B T vận
B T T B B cú
B X T, B X X B B T vận
X B T T cú
X B X T B B T vận
B T B B B T T cú
X T T B B T vận
B B X T B B cú
T X X, X X X X X T vận
X T T B B cú
B B T, X X T X B T vận
X B T T vận
T X B T B B T vận
X T B B B T T cú
B T T B B T vận
B: thanh bình; T: thanh trắc;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Lân lân 粼粼: hình dung sóng nước trong xanh sáng sủa.
3- Tô đê 蘇堤: tường đê do Tô Thức 蘇軾 xây
đắp ở Tây hồ 西湖 khi ông làm quan tri châu 知州 tại
Hàng Châu 杭州. Trên đê trồng liễu, trồng đào tạo nên cảnh sắc tuyệt
mỹ vào mùa xuân được ca tụng là “Tô đê xuân hiểu 蘇堤春曉”.
4- Tài 才: vừa mới.
5- Lưu hồng 流紅: dòng nước cuốn hoa trôi đi.
6- Phiên 翻: trái lại, lại.
7- Đông phong 東風: gió xuân.
8- Hoang kiều đoạn phố 荒橋斷浦:
9- Liễu âm 柳陰: bóng cây liễu.
10- Xanh (sanh) 撐: dùng sào chống thuyền để đẩy thuyền di chuyển. Ở đây
tác giả nói bóng mát cây liễu “chống” ra 1 cái thuyền nhỏ.
11- Trì đường 池塘: bờ ao, cũng có thể hiểu là ao hồ.
12- Biến 遍: khắp
13- Mộng trung phương thảo 夢中芳草: sự tích người Tạ Linh Vận 謝靈運đời
Nam Bắc triều, đêm nằm mộng thấy người em họ là Tạ Huệ Liên 謝惠連. Sáng ra ông nghĩ được câu thơ là “Trì đường sinh xuân
thảo 池塘生春草”.
14- Hòa 和: và, với.
15- Thậm 甚: rất, nhiều.
16- Lục 綠: nước trong xanh. Tân lục 新綠:
dòng nước suối trong mới chẩy ra.
17- Miểu miểu 渺渺: liên miên không ngừng.
18- Mậu lâm 茂林: khu rừng tươi tốt.
19- Thương 觴: chén uống rượu, đại chỉ việc uống rượu. Mậu lâm thương
vịnh 茂林觴詠: tụ tập uống rượu ngâm
vịnh thơ phú tại khu rừng tươi tốt.
20- Thiểu (tiễu) 悄: lặng lẽ.
21- Tiền độ Lưu lang 前度劉郎: mượn câu thơ của Lưu Vũ Tích 劉禹錫:
種桃道士歸何處,Chúng đào đạo sĩ quy hà xứ,
前度劉郎今又來。Tiền độ Lưu lang kim hựu lai.
Người đạo sĩ trồng đào nay về
nơi đâu,
Chàng Lưu khi xưa nay lại đến.
Ý nói những ngày vui khi xưa.
22- Bích đào 碧桃: một loại hoa đào đỏ.
23- Khê thượng bích đào đa
thiểu 溪上碧桃多少: ý nói có một số cây bích đào bên bờ suối.
Dịch Nghĩa
Xuân thủy
Sóng nước ấm áp trong xanh sámg
láng,
Chim yến bay đến,
Đúng lúc hoa xuân nở trên Tô đê.
Cá lặn sâu sóng lăn tăn đều đặn,
Hoa rụng theo dòng nước cuốn đi,
Lại cười gió xuân khó quét (sạch hoa rụng).
Tại cây cầu hoang tịch nơi bến
vắng,
Có chiếc thuyền nhỏ từ bóng
liễu đi ra.
(Bây giờ) nhìn bờ hồ mầu xanh
tràn khắp,
Rất giống (người Tạ Linh Vận)
nằm mộng thấy cỏ xanh.
(Suối) cùng với mây từ núi đi
ra,
Nhiều năm, quét sạch (hoa rụng
nhưng) mùi thơm của hoa không mất?
Lúc suối trong xanh chợt chẩy
ra,
Trên con đường nơi xóm cô đơn,
còn nhớ mình từng đi qua.
Tình cảm còn lại liên miên không
dứt,
(Cùng bằng hữu) uống rượu ngâm
thơ nơi khu rừng tươi tốt mà nay lặng vắng.
Chàng Lưu xưa đã về (mà ngày
vui không còn),
Một số cây bích đào trên suối
khoe sắc.
Phỏng Dịch
1 Nam Phố - Xuân Thủy
Nước ấm sáng xanh xanh,
Yến bay quanh,
Dường như Tô Đê hoa nở.
Cá lặn sóng long lanh,
Hoa trôi chẩy, Cười gió xuân không
sao đuổi.
Cầu hoang phố vắng,
Liễu dương ló dạng thuyền lan
nhỏ.
Nhìn lại ao hồ xanh khắp chốn,
Quả tựa giấc mơ mầu cỏ.
Cùng mây trong núi trôi ra,
Đã nhiều năm, không rửa sạch mùi
hương cũ.
Lúc suối lục vừa sinh,
Đường thôn vắng, từng nhịp bước
chân còn nhớ.
Dâng tràn tình tự,
Rượu thơ rừng thắm nay yên ả.
Khi trước Lưu lang nay về đến,
Bên suối bích đào phơi gió.
2- Xuân Thủy
Trong xanh nước ấm yến bay,
Tô đê hoa nở sóng lay cá trầm.
Hoa trôi nước chẩy gió xuân,
Nực cười khó quét hoa tàn
phiêu linh.
Cầu hoang phố vắng chênh vênh,
Thuyền lan bóng liễu vươn mình
nhô ra.
Ao hồ xanh ngát nhìn xa,
Khác nào trong mộng mượt mà cỏ
hoa.
Cùng mây suối nước trôi ra,
Bao năm không rửa chan hòa mùi
hương.
Cô thôn còn nhớ con đường,
Khi xưa từng đến tình trường
liên miên.
Rượu thơ rừng thắm lặng yên,
Lưu Lang ngày trước về miền
quê xưa.
Đào hoa trên suối phất phơ.
HHD 1-2024
No comments:
Post a Comment