瑞鶴仙 - 陸淞 Thụy Hạc Tiên -
Lục Tùng
臉霞紅印枕, Kiểm hà hồng ấn chẩm,
睡覺來、冠兒還是不整。Thụy giác
lai, quan nhi hoàn thị bất chỉnh.
屏間麝煤冷, Bình gian xạ môi lãnh,
但眉峯壓翠, Đãn
mi phong áp thúy,
淚珠彈粉。 Lệ châu đàn phấn.
堂深晝永, Đường thâm trú vĩnh,
燕交飛、風簾露井。Yến giao
phi, phong liêm lộ tỉnh.
恨無人, Hận
vô nhân,
說與相思, Thuyết
dữ tương tư,
近日帶圍寬盡。 Cận nhật đái vi khoan tận.
重省, Trùng tỉnh,
殘燈朱幌, Tàn
đăng chu hoảng,
淡月紗窗, Đạm
nguyệt sa song,
那時風景。 Na thời phong cảnh.
陽臺路迥, Dương đài lộ quýnh,
雲雨夢, Vân
vũ mộng,
便無準。 Tiện vô chuẩn.
待歸來, Đãi
quy lai,
先指花梢教看, Tiên chỉ
hoa tiêu giao khán,
欲把心期細問。 Dục bả tâm kỳ tế vấn.
問因循、過了青春,Vấn nhân tuần, quá liễu thanh xuân,
怎生意穩? Chẩm sinh ý ổn.
Chú Thích
1- Thụy hạc tiên 瑞鶴仙: tên từ bài, tên khác là “Nhất niệm hồng 一捻紅”, “Hạc hạc tiên 鶴鶴仙”,
gồm 102 chữ, trắc vận. Cách luật của Lục Tùng:
T B B T T vận
T T B, B B B T T T vận
B B T B T vận
T B B T T,
T B B T vận
B B T T vận
T B B, B B T T vận
T B B,
T T B B,
T T T B B T vận
B T vận
B B B T,
T T B B,
B B B T vận
B B T T vận
B T T,
T B T vận
T B B,
B T B B B T,
T T B B T T vận
T B B, T T B B,
T B T T vận
B: thanh bằng; T: thanh trắc;
vận: vần.
2- Kiểm hà 臉霞: vẻ mặt hồng hào.
3- Giác 覺: tỉnh lại.
4- Quan nhi 冠兒 = y
quan 衣冠: mũ áo, mũ và y phục, thường dùng cho con nhà danh môn
thế tộc.
5- Xạ môi 麝煤: chất than có pha mùi thơm xạ hương dùng để chế mực tầu.
Trong bài này chữ “xạ môi” chỉ bức tranh thủy mặc.
6- Mi phong 眉峯: chân mày.
7- Áp thúy 壓翠: cau mày, nhíu mày.
8- Đàn 彈: nước mắt tuôn ra.
9- Trú vĩnh 晝永: ngày dài đăng đẳng.
10- Giao phi 交飛: chim bay sát với nhau.
11- Phong liêm 風簾: màn cửa ngăn gió. Lộ tỉnh 露井:
giếng mở, không có nắp đậy.
12- Thuyết dữ 說與: thố lộ với ai, nói với ai.
13- Đái vi khoan tận 帶圍寬盡: vòng dây thắt lưng thật lỏng lẻo, chỉ thân thể hao gầy.
14- Tỉnh 省: xem xét, kiểm điểm.
15- Chu hoảng 朱幌: màn mầu hồng mắc trên giường nằm.
16- Sa song 紗窗: cửa sổ giăng màn lụa mỏng.
17- Phong cảnh 風景 = tình
cảnh 情景.
18- Dương đài 陽臺: nơi vua Sở Tương Vương 楚襄王
mộng thấy thần nữ trong bài “Cao đường phú 高唐賦”
của Tống Ngọc 宋玉 đời Chiến quốc. Trong bài này chữ Dương đài lộ quýnh 陽臺路迥 có ý
nói người tình ở nơi xa xôi.
19- Quýnh (còn đọc là huýnh) 迥: xa xôi.
20- Vân vũ mộng 雲雨夢: giấc mộng mây mưa, ám chỉ nam nữ vui vầy hoan lạc.
21- Vô chuẩn 無準: không chuẩn xác.
22- Hoa tiêu (sao) 花梢: ngọn cành hoa, cũng ám chỉ nhan sắc tươi đẹp.
23- Giao 教: để cho.
24- Tâm kỳ 心期: kỳ vọng của nội tâm.
25- Nhân tuần 因循: tùy tiện, dễ dàng.
26- Ý ổn 意穩: an tâm.
Dịch Nghĩa
(Bài này Lục Tùng làm để tặng
người ái cơ là ca nữ Ban Ban盼盼)
Gương mặt hồng còn in vết của
cái gối,
Vừa tỉnh ngủ, y phục đầu tóc
vẫn chưa chỉnh lại.
Trên tấm bình phong, bức
tranh thủy mặc trông vẻ lạnh lẽo,
Chỉ thấy mỹ nhân nhíu mày (không
vui),
Giọt nước mắt lăn trên má phấn.
Trong thâm khuê, ngày dài đăng
đẳng buồn tẻ,
Nhìn qua màn cửa che gió, nơi
mặt giếng, thấy đôi chim yến sát cánh nhau bay.
Hận rằng không có ai,
Để thố lộ nỗi lòng tương tư,
Gần đây thân hình tiều tụy, vòng
dây thắt lưng đã lỏng ra hết sức.
Một lần nữa, xem xét chuyện xưa,
(Ngày ấy) khi ánh đèn tàn ánh
chiếu hồng lên tấm màn,
Ánh trăng nhạt chiếu xuyên
qua màn lụa che cửa sổ,
Lúc đó tình cảnh (mỹ hảo).
(Bây giờ) người tình ở nơi xa
xôi,
Giấc mộng hạnh phúc,
Cũng không định chuẩn (bao giờ
mới có lại).
Đợi khi tình lang về,
Trước tiên sẽ chỉ nhánh hoa
cho anh ta xem,
Rồi đem những kỳ vọng trong
tim ra hỏi cho rõ.
Hỏi anh ta sao lại tùy tiện đam
ngộ tuổi thanh xuân,
Như thế an tâm được sao?
Phỏng Dịch
1 Thụy Hạc Tiên – Khuê Oán
Má hồng in gối ấn,
Mới tỉnh xong, y quan chưa mấy
chỉnh chấn.
Bình phong bức tranh lạnh.
Chỉ làn mi thúy nhíu,
Giọt châu má phấn.
Ngày dài cảnh lắng.
Én song phi, màn sương giếng
lộng.
Hận không người,
Thố lộ tương tư,
Mới thấy áo quần khoan rộng.
Trầm lặng.
Đèn tàn màn đỏ,
Trăng nhạt bên song,
Thời xưa phong cảnh.
Người tình xa vắng.
Đoàn tụ mộng,
Không chắc chắn.
Đợi về đây,
Trước chỉ cành hoa cho thấy,
Sẽ đem tâm tình chất vấn.
Hỏi dễ dàng, phá nát thanh
xuân,
Tấc lòng yên ổn?
2 Khuê Oán
Má hồng in gối dấu vân,
Tỉnh ra đầu tóc áo quần lôi
thôi.
Bình phong thủy mặc rã rời,
Lạnh lùng làn thúy không vui nhíu
mày.
Giọt châu má phấn tuôn đầy,
Thâm khuê đăng đẳng ngày dài
buồn tênh.
Nhìn xem thành giếng chênh vênh,
Qua màn chim yến bay thành một
đôi.
Hận rằng quanh quẩn không người,
Tương tư thố lộ cho vơi muộn
phiền.
Ngày gần tiều tụy vóc tiên,
Tái hồi kiểm điểm nỗi niềm lúc
xưa.
Đèn tàn chiếu đỏ màn tơ,
Sa song ánh nguyệt dịu mờ
chung soi.
Cảnh tình lúc ấy đẹp đôi,
Ngày nay chàng đã chân trời cách
xa.
Giấc mơ hạnh phúc mặn mà,
Phụng loan chăn gối rồi ra thế
nào?
Đợi chàng về sẽ hỏi sau,
Trước tiên chỉ nhánh hoa đào
cho xem.
Tâm tình kỳ vọng hỏi thêm,
Dễ dàng cất bước êm đềm ra đi.
Thâm khuê tàn tạ xuân thì,
Lương tâm có thấy chút gì ăn
năn?
HHD 01-2023
0 comments:
Post a Comment