Thursday, August 5, 2021

Nam Hương Tử - Vương An Thạch

- 王安石  Nam Hương Tử - Vương An Thạch

 

自古帝王             Tự cổ đế vương châu,

鬱鬱蔥蔥佳氣Uất uất thông thông giai khí phù.

四百年來成一夢,Tứ bách niên lai thành nhất mộng,

                          Kham sầu.

晉代衣冠成古Tấn đại y quan thành cổ khâu.

 

繞水恣行             Nhiễu thủy tứ hành du.

上盡層城更上Thượng tận tằng thành cánh thượng lâu.

往事悠悠君莫問,Vãng sự du du quân mạc vấn,

                          Hồi đầu.

檻外長江空自Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

 

Chú Thích

1 Nam hương tử南鄉子: tên từ bài, nguyên là một khúc hát của Đường giáo phường. Bài này có 56 chữ, đoạn trên và đoạn dưới đều có 4 bình vận. Cách luật:

 

X T T B B vận

X T B B T T B vận

X T X B B T T cú

B B vận

X T B B X T B vận  

  

X T T B B vận

X T B B T T B vận

X T X B B T T cú

B B vận

X T B B X T B vận  

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2 Đế vương châu 帝王州: thức là thành Kim Lăng金陵, nay là thị trấn Nam Kinh 南京 thuộc tỉnh Giang Tô, TH.

3 Uất uất thông thông郁郁葱葱: cây cối xanh tươi um tùm.

4 Giai khí 佳氣: nơi nào sản sinh ra nhiều bậc đế vương thì người ta nói nơi đó có giai khí.

5 Phù : nổi, hiện rõ.

6 Tứ bách niên四百年: 367 năm từ Đông Ngô東吴 trải qua Đông Tấn東晋, Tống, Tề, Lương, Trần, sáu triều đại đều đóng đô tại Kim Lăng.

7 Kham sầu 堪愁: làm cho mình phải buồn rầu.

8 Quan : cái mũ của các quan thời xưa đội. Y quan 衣冠: trang phục các quan. Câu Tấn đại y quan thành cổ khâu: trích dẫn 1 câu thơ của Lý Bạch trong bài Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài登金陵鳳凰臺:

 

吳宮花草埋幽徑,Ngô cung hoa thảo mai u kính,

晉代衣冠成古丘。Tấn đại y quan thành cổ khâu.

Cung điện nhà Ngô cùng hoa thảo đều chôn vùi nơi đường mòn u tịch,

Các bậc quan quyền đời Tấn nay đã nằm yên trong những nấm mộ cổ xưa”.

 

9 Cổ khâu古丘: nấm mồ cổ xưa.

10 Nhiễu thủy 繞水: dòng nước chẩy vòng vo.

11 Tứ : nhiệm ý, tự do tự tại không bị câu thúc.

12 Hành du 行遊:  đi thưởng ngoạn.

13 Tằng: từng, tầng, lớp.

14 Cánh : lại, lại nữa.

15 Du du 悠悠: thăm thẳm cao xa.

16 Hồi đầu回頭: quay đầu lại nhìn. Cũng có người hiểu là “Thấu triệt tỉnh ngộ” như câu kệ của nhà Phật “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn苦海無边,回頭是岸: biển khổ vô bờ, quay đầu lại là bến”.

17 Hạm : lan can ngoài cửa. Câu này lấy chữ từ bài thơ “Đằng Vương các thi滕王閣詩” của Vương Bột 王勃:

 

閣中帝子今何在,Các trung đế tử kim hà tại,

檻外長江空自流。Hạm ngoại Trường giang không tự lưu.

Trong cung con vua nay ở đâu,

Ngoài lan can, sông Trường giang vẫn trôi”.

 

Dịch Nghĩa

Thành Kim Lăng từ xưa là nơi bậc đế vương đóng đô,

Cây cối xanh tươi trù mật, khí lành ngút trời.

(Nước non) bốn trăm năm chỉ là một giấc mộng.

(Làm cho mgười phải) cảm thán.

Tấn đại vua quan khanh tướng đều nằm dưới những nấm mộ cổ.

 

Tùy tiện đi chơi theo dòng nước uốn quanh.

Lên tận chót từng thành rồi lại lên từng lầu.

Chuyện quá khứ thăm thẳm (đầy rẫy đúng sai) anh đừng hỏi.

Quay đầu (nhìn lại),

Ngoài hàng rào kia sông Trường giang vẫn chẩy.

 

Phỏng Dịch

Hoài Cổ

 

Từ xưa đất đế vương,

Sầm uất khí hiền lương.

Bốn trăm năm giấc mộng,

Nấm mộ cũ sầu thương.

 

Theo dòng suối uốn quanh,

Lên tận chót từng thành.

Chuyện đời xin chớ hỏi,

Sông nước vẫn trôi nhanh.

 

HHD 10-2020

 

 

 

0 comments:

Post a Comment