Thursday, July 12, 2018

Yến Sơn Đình - Triệu Cát

Tống Huy Tông Triệu Cát宋徽宗(趙佶) là 1 ông vua thời Bắc Tống  北宋, xa xỉ, hoang dâm, thích cầm kỳ thi họa, đã từng phong ca nữ Lý Sư Sư làm phi. Dưới triều đại của ông, nhiều nơi nông dân nổi dậy chống sưu cao thuế nặng, trong đó phải kể đến Tống Giang 宋江ở Lương Sơn Bạc梁山泊. Phương bắc thì nước Kimtìm cách xâm lấn. Năm 1127, Bắc Tống diệt vong, Triệu Cát và toàn gia bị quân Kim bắt làm tù binh. Trên đường bị giải về Ngũ Quốc Thành trong nước Kim, ông làm bài từ "Bắc Hành Kiến Hạnh Hoa" để nói lên nỗi niềm của 1 ông vua thất trận bị lưu đầy đi xa quê hương xứ sở.

宴山亭 - 趙佶  Yến Sơn Đình  - Triệu Cát

北行見杏花        Bắc Hành Kiến Hạnh Hoa

裁翦冰綃,                 Tài tiễn băng tiêu,
輕疊數重,                 Khinh điệp số trùng,
淡著燕脂勻注。         Đạm trước yên chi quân chú.
新樣靚妝,                 Tân dạng thinh trang,
艷溢香融,                 Diễm dật hương dung,
羞殺蕊珠宮女。         Tu sát Nhụy châu cung nữ.
易得凋零,                 Dị đắc điêu linh,
更多少、無情風雨。 Cánh đa thiểu vô tình phong vũ.
愁苦,                         Sầu khổ,
問院落淒涼,             Vấn viện lạc thê lương,
幾番春暮?                 Kỷ phiên xuân mộ?

憑寄離恨重重,         Bằng ký ly hận trùng trùng,
者雙燕何曾,             Giá song yến hà tằng,
會人言語?                 Hội nhân ngôn ngữ?
天遙地遠,                 Thiên dao địa viễn,
萬水千山,                 Vạn thủy thiên sơn,
知他故宮何處?         Tri tha cố cung hà xứ?
怎不思量?                 Chẩm bất tư lượng?
除夢裏有時曾去。     Trừ mộng lý hữu thời tằng khứ.
無據,                         Vô cứ,
和夢也新來不做。       Hòa mộng dã tân lai bất tố.

Chú Thích
1.  Yến sơn đình 宴山亭 : tên từ điệu, còn viết là 燕山亭, gồm 2 đoạn, 99 chữ. Đoạn trên có 11 câu, 5 trắc vận. Đoạn dưới có 10 câu, 5 trắc vận. Cách luật:

X T B B cú

B T T B cú

T T B B B T vận

B T T B cú

T T B B cú

X T T B B T vận

T T B B cú

T B T, X B B T vận

B T vận

T T T B B cú

T B B T vận

 

B T B T B B cú

T X T B B cú

T B B T vận

B B T T cú

T T B B cú

B B T B B T vận

T T B B cú

X X T, X B B T vận

B T vận

B T T, B B T T vận 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần


2. Băng tiêu 冰綃: lụa trắng, chỉ cánh hoa. Tiêu = tơ sống, hàng dệt bằng tơ sống.
3. Yên chi 燕脂: = yên chi 胭脂 son phấn.
4. Quân Chú 勻注: thoa đều đều lên.
5. Thinh trang 靚妝: trang sức đẹp đẽ.
6. Diễm dật hương dung 艷溢香融: 
7. Nhụy (nhị) châu cung 蕊珠宮 hay gọi tắt là nhụy cung 蕊宮: chỉ cung điện trên trời, chỗ tiên ở. Nhụy châu cung nữ 蕊珠宮女: chỉ tiên nữ.
8. Viện lạc 院落: khoảng đất chung quanh nhà, bên trong hàng rào.
9. Bằng ký 憑寄 : = bằng thùy ký 憑誰寄: nhờ ai gởi?
10. Giá : = giá : cái này.
11. Vô cứ 無據: không biết lý do.
12. Hòa : luôn cả. Tân lai 新來 = tối cận 最近 = cận lai 近來: gần đây (chỉ thời gian)

Dịch Nghĩa
Cắt lụa mầu trắng,
Nhẹ nhẹ chồng lên nhau thành lớp,
Thoa nhạt son phấn.
Y phục đẹp đẽ hợp thời trang,
Diễm sắc và hương thơm phân tán mọi nơi,
Làm tiên nữ trên trời mắc cỡ đến chết được.
(Hồng nhan) dễ tàn tạ,
Thêm (trải qua) ít nhiều mưa gió vô tình.
(tình huống) buồn và khổ!
Xin hỏi khu vườn thê lương,
(Trải qua) bao nhiêu chiều xuân?

Ai giúp tôi gửi mối hận sầu ly biệt trùng trùng,
Đôi chim yến này không sao,
hiểu được nhân gian ngôn ngữ?
Trời đất xa xôi,
Muôn ngàn sông núi,
Đâu biết đưọc cung xưa (quê hương) nay ở nơi nao?
Sao không nghĩ suy,
Chỉ ở trong mộng có lúc đi  đến,
Không biết nguyên do,
Ngay cả mộng gần đây cũng không mộng thành (vì suốt đêm không ngủ).

Phỏng Dịch


1 Yến Sơn Đình - Gặp Đóa Hạnh Hoa

 

Cắt xén băng tơ,

Chồng nhẹ lắm tầng,

Đạm nhạt thoa son đều chỗ.

Hình mới đẹp trang,

Diễm sắc hương thân,

Thẹn chết cảnh tiên cung nữ.

Dễ bị suy tàn,

Lại thêm trải, vô tình mưa gió.

Sầu khổ,

Hỏi khoảnh đất thê lương,

Mấy chiều xuân quá.

 

Nhờ gửi ly hận trùng trùng,

Cặp chim yến chưa từng,

Hiểu người ngôn ngữ.

Trời xa đất thẳm,

Vạn núi ngàn sông,

Nơi đâu biết là làng cũ. 

Nghĩ ngợi sao không,

Chỉ trong mộng, có khi về đó.

Không cứ.

Dù mộng cũng, gần đây chẳng có.

 

2 Gặp Đóa Hạnh Hoa


Cắt tiả lụa mầu trắng,
Xếp chồng nhiều cánh hoa.
Tô son nhẹ điểm phấn,
Trang phục đẹp hài hòa.

Sắc hương bay tản mát,
Xao xuyến Nhụy châu cung.
Hồng diễm mau phai nhạt,
Vô tình mưa gió cuồng.

Bao phiền muộn khổ thương,
Xin hỏi vườn thê lương,
Từng trải ngày linh lạc,
Mấy chiều xuân đoạn truờng?

Sầu biệt ly ai gửi?
Trùng trùng mối hận đời.
Đôi chim không hiểu thấu,
Ngôn ngữ của loài người.

Thăm thẳm trời xa lạ,
Vạn sông núi nhạt nhòa.
Cố lý nào đâu tá?
Mơ hồ ngày tháng qua.

Suy tư có mấy lúc?
Trong mộng về quê xưa.
Thẫn thờ tìm giấc ngủ,
Thức trắng đêm bơ vơ.

HHD 7-2018


Bản Dịch của Lộc Bắc

(Bắc Hành Kiến Hạnh Hoa)
1-
Lụa trắng cắt từng lớp
Nhẹ xếp cao thành chồng
Sơ sài son phấn phủ
Dạng mới y trang hồng

Đẹp tràn sắc hương trinh
Thẹn mê hồn tiên nữ
Hồng nhan phai tàn dễ
Trải mưa gió vô tình.

Buồn khổ hỏi quê cũ
Luân lạc đến thê lương
Bao phen chiều xuân đổ
Nào đâu đã tỏ tường

Ai chuyển dùm ly hận
Yến không hiểu tiếng người
Trời đất núi sông này
Nơi nao nơi cố quận?

Sao không suy nghĩ rõ
Xưa trong mộng từng có
Chẳng biết cớ làm sao
Mộng gần không còn nữa!


2-

Lụa trắng cắt xong
Nhẹ xếp từng chồng
Sơ sài son tô phấn phủ
Dáng hợp thời trang
Sắc hương đẹp tràn
E thẹn mê hồn tiên nữ
Nhan sắc dễ tàn.
Lại trải qua vô tình mưa gió
Buồn khổ
Hỏi vườn lạc thê lương
Bao chiều xuân đổ

Ai chuyển giúp ly hận đầy
Đôi yến này làm sao
Hiểu tròn câu chữ
Cao trời xa đất
Ngàn núi vạn sông
Nơi nao cung xưa viễn xứ
Sao không suy nghĩ?
Chỉ trong mộng đòi phen rời bỏ
Chẳng rõ
Ngay mộng gần cũng không còn nữa.

Lộc Bắc

Jul2018


0 comments:

Post a Comment