一萼紅 - 周密 Nhất Ngạc Hồng – Chu Mật
登蓬萊閣有感 Đăng
Bồng Lai các hữu cảm
步深幽。 Bộ thâm u.
正雲黃天淡, Chính
vân hoàng thiên đạm,
雪意未全休。 Tuyết ý vị toàn hưu.
鑑曲寒沙, Giám
khúc hàn sa,
茂林煙草, Mậu
lâm yên thảo,
俯仰千古悠悠。 Phủ ngưỡng thiên cổ du du.
歲華晚、飄零漸遠, Tuế hoa
vãn, phiêu linh tiệm viễn,
誰念我、同載五湖舟? Thùy niệm ngã, đồng tải ngũ hồ châu?
磴古松斜, Đặng
cổ tùng tà,
崖陰苔老, Nhai
âm đài lão,
一片清愁。 Nhất phiến thanh sầu.
回首天涯歸夢, Hồi
thủ thiên nhai quy mộng,
幾魂飛西浦, Kỷ
hồn phi Tây Phố,
淚灑東州。 Lệ sái Đông Châu.
故國山川, Cố
quốc sơn xuyên,
故園心眼, Cố
viên tâm nhãn,
還似王粲登樓。 Hoàn tự Vương Xán đăng lâu.
最負他、秦鬟妝鏡, Tối phụ
tha, Tần hoàn trang kính,
好江山、何事此時遊! Hảo giang sơn, hà sự thử thời du!
為喚狂吟老監, Vi
hoán cuồng ngâm lão giám,
共賦消憂。 Cộng
phú tiêu ưu.
Chú Thích
1- Nhất ngạc hồng 一萼紅: tên từ bài. Từ điệu nhất ngạc hồng có thể dùng vần bằng
hay vần trắc. Cách luật dùng vần bằng có từ thời Khương Quỳ 姜夔:
T B B vận
T X B X T cú
X T T B B vận
X T B B cú
X B X T cú
X T X T B B vận
T X T, X B X T cú
X X X, B T T B B vận
X T B B cú
X B X T cú
X T B B vận
X T X B X T cú
T X B X T cú
X T B B vận
X T B B cú
X B X T cú
X X X T B B vận
T X X, B B X T cú
X X X, X T T B B vận
X T X B X X cú
X T B B vận
B: thanh bằng; T: thanh trắc;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Bồng Lai các 蓬萊閣: xưa ở chân núi Ngọa Long sơn 卧龍山,
huyện Thiệu Hưng 紹興 tỉnh Chiết Giang 浙江,
TH.
3- Bộ 步:
bước lên.
4- Chính 正: chính lúc.
5- Toàn hưu 全休: hoàn toàn hết.
6- Giám khúc 鑑曲 = Giám
hồ nhất khúc 鑑湖一曲: một khúc của Giám hồ. Sách “Hạ Tri Chương truyện 賀知章傳” chép rằng khi ông Hạ về hưu thì vua Đường Huyền Tông
唐玄宗 hạ chiếu cấp cho ông “Kính hồ Diệm Xuyên nhất khúc 鏡湖剡川一曲: một khoảnh
đất ở vùng Kính Hồ Diệm Xuyên”. Kính hồ tức Giám hồ 鑑湖,
còn có tên khác là “Trường hồ 長湖”, “Khánh hồ 慶湖”, ở tỉnh Chiết Giang 浙江,
TH. Dòng suối Diệm Xuyên 剡川 không rõ tại đâu. Trong
bài này chữ Giám khúc chỉ một khúc của Giám hồ (Giám hồ vốn rất dài và chia ra
nhiều nhánh).
7- Mậu lâm 茂林: chỉ khu vườn rừng “Lan đình 蘭亭”
ở chân núi Lan Chử sơn 蘭渚山, huyện Thiệu Hưng 紹興 tỉnh Chiết Giang 浙江, TH.
Nơi đây, thời Xuân Thu 春秋, Việt Vương Câu Tiễn
越王勾踐 đã từng trồng rất nhiều hoa lan. Đến thời Hán 漢 triều thì được thiết lập dịch đình 驛亭. Vì vậy sau này có tên là Lan Đình. Vào thời Đông Tấn 東晉, nhà thư pháp văn học gia Vương Hy Chi 王羲之 cư ngụ tại đây và đã viết ra tập “Lan Đình Tâp Tự 蘭亭集序” rất nổi tiếng.
8- Phủ ngưỡng 俯仰: còn viết là “Phủ ngưỡng 俛仰”
hay “Phủ ngưỡng chi gian 俯仰之間: thời gian giữa lúc
cúi xuống và ngửng lên”, ý nói thời gian qua nhanh, việc quá khứ nay đã là sự tích.
9- Du du 悠悠: xa thăm thẳm.
10- Tuế hoa 歲華: tuổi trẻ.
11- Thùy niệm ngã 誰念我: ai hiểu được tôi, ai đồng tình với tôi.
12- Ngũ hồ 五湖: có nhiều thuyết nói về chữ “Ngũ hồ”. Thuyết nay không
giống thuyết xưa. Thuyết xưa chuyên chỉ Ngũ Hồ là Thái Hồ, hoặc Thái Hồ và những
vùng phụ cận. Theo sách “Sử ký hà cừ thư tập giải 史記河渠書集解” thì chữ “Ngũ Hồ” chỉ là tên của một cái hồ duy nhất tức là “Thái Hồ 太湖”, nơi Phạm Lãi 范蠡 và
Tây Thi đi ẩn cư sau chiến tranh Ngô 吳-Việt 越. Ngũ hồ châu 五湖舟: chiếc thuyền ngao du ngũ hồ.
13- Đặng 磴: thềm đá, chỉ đường đi trong núi.
14- Nhai âm 崖陰: vùng sườn núi.
15- Thanh sầu 清愁: tình tự sầu muộn thê lương.
16- Kỷ 幾 = kỷ
độ 幾度 = kỷ
thứ 幾次: bao lần, nhiều lần.
17- Tây Phố 西浦 và Đông Châu 東州: địa danh, ở vùng Thiệu Hưng 紹興,
tỉnh Chiết Giang 浙江, TH.
18- Cố viên 故園: chỉ cố hương.
19- Vương Xán đăng lâu 王粲登樓: bài phú “Đăng lâu 登樓”
của Vương Xán 王粲. Vương Xán là người cuối triều đại Đông Hán 東漢, vì chạy loạn đến ở Kinh Châu 荊 州 và làm bài “Đăng lâu
phú 登樓賦” trong đó có câu:
雖信美而非吾土兮,Tuy tín mỹ nhi phi ngô thổ hề,
曾何足以少留。Tằng hà túc dĩ thiểu lưu.
Tuy chỗ này thật đẹp nhưng
không phải quê hương ta,
Sao có thể đáng cho ta ở lại
mãi?
20- Phụ 負 = cô
phụ 辜負: ruồng bỏ.
21- Tần hoàn 秦鬟: Núi Tần Vọng sơn 秦望山 ở huyện Thiệu Hưng
紹興 tỉnh Chiết Giang 浙江 trông
giống như hình búi tóc. Cũng có thuyết nói “Tần hoàn” có nghĩa là búi tóc của cô
gái họ Tần trong bài hát nhạc phủ 樂府Mạch thượng tang 陌上桑: “Tần thị hữu hảo nữ, tự danh vi La Phu 秦氏有好女,自名為羅敷: bà họ Tần có con gái tốt, đặt tên là La Phu”. Xét ra
câu chuyện Tần La Phu không có liên quan gì đến bài từ này của Chu Mật.
22- Trang kính 妝鏡: cái gương của phụ nữ dùng khi trang điểm, ám chỉ Kính
hồ 鏡湖.
23- Cuồng ngâm lão Giám 狂吟老監: tức là nhà thơ, nhà thư pháp đời Đường tên là Hạ Tri
Chương 賀知章, tự là Quý Chân 季真,
quê ở Hàng Châu 杭州. Ông đỗ trạng nguyên đời Võ Tắc Thiên Chứng Thánh
nguyên niên 武則天證聖元年. Trên thi đàn ông ngang hàng với các thi nhân đương
thời như Trương Nhược Hư張若虛, Trương Húc 張旭, Lý Bạch 李白, Trần Tử Ngang 陳子昂 v.v. Lúc già ông về hưu trí được vua ban tặng “Kính Hồ
Diệm Xuyên nhất khúc 鏡湖剡川一曲”. Ông lấy hiệu là “Tứ Minh Cuồng Khách 四明狂客” và “Bí Thư Ngoại Giám 秘書外監”, thường ngao du ngâm vịnh. Thơ của ông bị thất lạc, nay chỉ còn 19 bài
trong Toàn Đường Thi. Lý Bạch 李白 có câu thơ “Đối Tửu Ức Hạ Giám 對酒憶賀監: uống rượu nhớ Hạ Giám” như sau:
四明有狂客,Tứ minh hữu cuồng khách,
風流賀季真。Phong lưu Hạ Quý Chân.
Trong núi Tứ Minh có người
cuồng khách,
Đó là người phong lưu tên
Hạ Quý Chân.
Nhắc đến Hạ Tri Chương, tác
giả tỏ ý muốn được như người xưa, ngâm vịnh tiêu sầu, hoài niệm bạn hữu.
24- Phú 賦: ngâm vịnh thi từ.
Dịch Nghĩa
Cảm tác khi lên Bồng Lai các.
Đi bộ vào con đường thâm u khúc
khuỷu.
Chính lúc mây vàng trời nhạt,
Hơi lạnh do tàn tuyết chưa hết.
Bãi cát ở khúc (này của) Giám
Hồ lạnh lẽo,
Rừng cây cỏ tốt tươi phủ khói
sương,
(Tựa như) trong thời gian cúi
xuống ngửa lên (ngắn ngủi), thiên cổ đã xa thăm thẳm.
Tuổi đã về già, mình đi phiêu
linh càng xa,
Còn ai đồng tình với tôi, cùng
ngồi thuyền đi ngao du ngũ hồ?
Nơi thềm đá có cây tùng nghiêng
vẹo bên cạnh,
Trên vùng sườn núi, rêu mọc đầy
già cỗi.
Một phiến tình tự sầu muộn.
Ngoảnh đầu lại, từ nơi thiên
nhai mộng về quê,
Bao lần hồn mộng bay về Tây
Phố,
Khóc sướt mướt ở Đông Châu.
Cố quốc giang sơn,
Tâm hồn hướng về làng xưa.
Cũng như Vương Xán xưa, khi lên
lầu (buồn rầu nhớ quê),
Mình đã phản bội, (núi Tần Vọng
Sơn trông như hình) mỹ nữ búi tóc nhìn gương Kính Hồ trang điểm.
Giang sơn ơi, làm sao có thể đi
chơi được trong lúc này,
Se sẽ gọi tên những bạn cuồng
ngâm xưa,
Cùng mình ngâm vịnh giải ưu
phiền.
Phỏng Dịch
1 Nhất Ngạc Hồng -
Bước thâm u.
Lúc mây vàng trời nhạt,
Tuyết ý vẫn lu bù.
Cát lạnh hồ trong,
Cỏ rừng sương khói,
Thấp thoáng kim cổ du du.
Tuổi thơ hết, nổi trôi xa
mãi,
Ai theo tôi, chèo khắp chốn
năm hồ?
Thềm đá tùng nghiêng,
Sườn non rêu cỗi,
Một phiến u sầu.
Nhìn lại mơ về xa thẳm,
Mấy lần hồn Tây Phố,
Lệ ướt Đông Châu.
Nước cũ sơn xuyên,
Vườn xưa lưu luyến,
Cũng như Vương Xán lên lầu.
Đã phản bội, non Tần soi nước,
Non sông hỡi, du ngoạn lúc
này sao.
Gọi sẽ bạn bè xưa ấy,
Giải muộn cùng nhau.
2
Quanh co dấn bước đường
hoang,
Mây vàng trời nhạt tuyết tàn
chưa tan.
Giám Hồ khúc, cát lạnh tanh,
Cỏ rừng sương khói nhìn nhanh
đất trời.
Cổ kim một thoáng xa vời,
Không còn tuổi trẻ cuộc đời
phiêu linh.
Có ai đồng cảm với mình,
Ngồi thuyền du ngoạn loanh
quanh năm hồ.
Thềm đá cổ, tùng lệch xô,
Sườn non rêu phủ sầu mơ một vùng.
Về quê ngàn dặm trông mong,
Bao lần hồn mộng bay vòng phố
Tây.
Đông Xuyên lệ ướt đêm ngày,
Nước xưa sông núi mắt say quê
mình.
Nơi đây dù cảnh đẹp xinh,
Luyến lưu cố lý chân tình cố hương.
Phản bội rồi, Tần Hoàn thương,
Giang sơn mỹ hảo còn vương nỗi
sầu.
Lúc này du ngoạn được sao?
Gọi tên bạn cũ năm nào bên
nhau.
Cùng mình ngâm vịnh giải ưu.
HHD 12-2023
0 comments:
Post a Comment