Tuesday, May 11, 2021

Lưu Xuân Lệnh - Án Kỷ Đạo

留春令 - 晏幾道  Lưu Xuân Lệnh – Án Kỷ Đạo

 

畫屏天畔,                 Họa bình thiên bạn,

夢迴依約,                 Mộng hồi y ước,

十洲雲                 Thập châu vân thủy.

手捻紅箋寄人書,Thủ niệm hồng tiên ký nhân thư,

寫無限,傷春        Tả vô hạn, thương xuân sự.

 

別浦高樓曾漫Biệt phố cao lâu tằng mạn ỷ.

對江南千             Đối giang nam thiên lý.

樓下分流水聲中,Lâu hạ phân lưu thủy thanh trung,

有當日, 憑高       Hữu đương nhật, bằng cao lệ.

 

Chú Thích

1- Lưu xuân lệnh 留春令: tên từ bài, gồm 2 đoạn cộng 50 chữ. Đoạn trên có 5 câu, 2 trắc vận. Đoạn dưới có 4 câu, 3 trắc vận. Cách luật:

 

T B B T cú

T B X T cú

X B B T vận

T T B B T B B cú

T X T, B B T vận

  

T T B B B X T vận

T X B B T vận

B T B B T B B cú

T X T, B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Họa bình 畫屏: bình phong hoa lệ, bình phong có vẽ hình.

3- Thiên bạn 天畔: chân trời, nơi xa.

4- Mộng hồi 夢迴: tỉnh mộng.

5- Y ước 依约: mơ hồ, hoảng hốt.

6- Thập châu 十洲: theo truyền thuyết, đây là nơi thần tiên ở.

7- Niệm (niệp, nẫm, niêm) : dùng ngón tay cầm.

8- Hồng tiên 紅箋: giấy viết thư mầu hồng

9- Biệt phố 别浦: Bờ nước (bến đò) chỗ ly biệt nhau.

10- Giang nam 江南: vùng đất phía nam sông Trường giang, TH.

11- Phân lưu 分流: dòng nước rẽ đôi, ám chỉ người phân ly.

12- Đương nhật 當日: hôm đó, ngày đó.

13- Bằng cao 憑高: dựa lan can trên lầu.

14- Hai câu chót: mượn ý bài từ “Tam đài lệnh 三臺令” của Phùng Diên Kỷ 馮延己:

 

南浦,南浦,    Nam phố, Nam phố,

翠鬟離人何處。Thúy hoàn ly nhân hà xứ.

當時攜手高樓,Đương thời huề thủ cao lâu,

依舊樓前水流。Y cựu lâu tiền thủy lưu.

流水,流水,    Lưu thủy, Lưu thủy,

中有傷心雙淚。Trung hữu thương tâm song lệ.”

 

Nam phố. Nam phố,

Tóc xanh (người đẹp), từ khi ly biệt nay ở đâu.

Ngày xưa nắm tay nhau trên lầu cao,

Trước lầu nước vẫn chẩy như xưa.

Nước chẩy, Nước chẩy,

Trong đó có hai dòng lệ thương tâm.

 

Dịch Nghĩa

(Hình trên) tấm bình phong hoa lệ (như) ở chân trời xa,

Vừa tỉnh mộng, còn mơ hồ hoảng hốt,

(Như còn nhớ) biển đảo thần tiên Thập châu mây nước (trong mộng).

(Hoặc là nhìn ảnh Thập châu mây nước thần tiên trên bình phong)

Tôi cầm tấm giấy hồng viết thư gửi cho người (yêu),

Viết vô hạn những tâm sự xuân tình buồn thương.

 

(Tôi thường đến) tựa lầu cao ở bến đò ly biệt xưa,

(Bồi hồi) nhìn vùng Giang nam dài rộng ngàn dặm.

Trong âm thanh của dòng nước rẽ dưới chân lầu,

Có (tiếng của) dòng nước mắt lúc mình đứng tựa lầu cao ngày đó.

 

 

Phỏng Dịch


1 Lưu Xuân Lệnh - Buồn Chia Phôi

 

Bức tranh trời thẳm,

Mộng về hoảng hốt,

Bồng lai vân thủy.

Tay nắm thư hồng gửi đến người,

Viết vô hạn, xuân thương lụy.

 

Bến nước lầu cao từng dựa ỷ.

Vọng giang nam thiên lý.

Dòng rẽ chân lầu chẩy thanh âm,

Có ngày đó, đôi dòng lệ.

 

2 Buồn Chia Phôi

 

Tỉnh mộng mơ hồ giây phút trôi,

Bình phong hoa lệ, ảnh xa xôi.

Thập châu mây nước còn vương mộng,

Cầm giấy hoa tiên thư gửi người.

 

Thương tâm vô hạn viết trong thư,

Bến vắng lầu cao ly biệt xưa.

Trông suốt phương nam thiên lý cảnh,

Mơ về ngày cũ mối tình thơ.

 

Dòng nước rẽ ngang róc rách xuôi,

Hòa theo tiếng lệ lúc chia phôi.

Âm thanh khắc khoải buồn thương ấy,

Vang động trong tim tới cuối đời.

 

HHD 11-2020

 

Bản Dịch của Lộc Bắc

 

Lưu Xuân Lệnh

 

1-     

Bình phong trời biển

Mộng tan hoảng hốt

Đảo tiên mây nước

Tay nâng giấy hồng gởi tâm thư

Miên man viết, xuân thương tiếc!

 

Lầu cao dựa, bến đò ly biệt

Nhìn Giang Nam xa tít

Âm thanh nước rẽ dưới chân lầu

Lẫn lệ rơi ngày tiễn bước!

 

2-     

Bình phong họa cảnh chân trời

Mộng tan hoảng hốt mây trôi đảo thần

Giấy hồng thơ gởi phù vân

Miên man tay viết, ngày xuân dăn dò

 

Lầu cao đứng dựa bến đò

Giang Nam vạn dặm tít mù người đâu

Âm thanh nước rẽ dưới lầu

Nghe còn tiếng lệ thương đau ngày nào!

LB

Dec20

 

 

 

  

0 comments:

Post a Comment