Thursday, November 23, 2023

Tam Xu Mị - Ngô Văn Anh

三姝媚 - 吴文英 Tam Xu Mị - Ngô Văn Anh

過都城舊居有感  Quá đô thành cựu cư hữu cảm.

 

湖山經醉             Hồ sơn kinh tuý quán.

春衫、啼痕酒痕無Tý xuân sam, Đề ngân tửu ngân vô hạn.

又客長安                 Hựu khách Truờng An,

嘆斷襟零袂,             Thán đoạn khâm linh mệ,

涴塵誰                 Ố trần thùy hoán.

紫曲門荒,                 Tử khúc môn hoang,

沿敗井、風搖靑Duyên bại tỉnh, phong dao thanh mạn.

對語東鄰,                 Đối ngữ đông lân,

猶是曾巢,                 Do thị tằng sào,

謝堂雙                 Tạ đường song yến.

 

春夢人間須         Xuân mộng nhân gian tu đoạn.

但怪得、當年夢緣能Đãn quái đắc, Đương niên mộng duyên năng đoản.

繡屋秦箏,                 Tú ốc Tần tranh,

傍海棠偏愛,             Bàng hải đường thiên ái,

夜深開                 Dạ thâm khai yến.

舞歇歌沉,                 Vũ hiết ca trầm,

花未減、紅顔先Hoa vị giảm, Hồng nhan tiên biến.

佇久河橋欲去,         Trữ cửu hà kiều dục khứ,

斜陽淚滿                 Tà dương lệ mãn.

 

Chú Thích

1- Tam xu mị 三姝媚: tên từ bài, xuất xứ từ bài hát của nhạc phủ xưa tên là “Tam phụ diễm 三婦艷”. Bài này có 99 chữ, vần trắc. Cách luật của bài này tương đồng với cách luật của Sử Đạt Tổ duy câu 2 nối với câu 3 và câu 13 nối với câu 14 trong cách luật của ngô Văn Anh:

 

X B B T T vận

T X X, B B X B B T vận

T T B B cú

T X B B T cú

T B B T vận

X T X B cú

X X T, X B B T vận

X T B B cú

X T B B cú

T B B T vận

 

X T B B X T vận

T T T, B B T B B T vận

X T B B cú

T X B B T cú

T B B T vận

T T B B cú

X T T, X B B T vận

X T B B X T cú

B B X T vận

 

2- Hồ sơn 湖山: chỉ cảnh Tây hồ 西湖 ở Hàng Châu và núi non trong vùng phụ cận.

3- Tý : ngâm trong nước, thấm ướt. Đề ngân tửu ngân 啼痕酒痕: Có thể tác giả đã mượn ý của Án Kỷ Đạo 晏幾道 trong bài từ Điểm giáng thần 點絳唇:

 

分飛後。Phân phi hậu. Sau khi chia tay.

淚痕和酒。Lệ ngân hòa tửu. Vệt nước mắt và rượu.

佔了雙羅袖。Chiếm liễu song la tụ. Thấm ướt 2 tay áo lụa”.

 

4- Trường An 長安: ám chỉ Lâm An 臨安 tức Hàng Châu  lúc bấy giờ là kinh đô của nước Nam Tống, nơi tác giả đã từng sống qua với người thiếp ca nữ đã quá vãng, chỉ được biết với tên Hàng Cơ 杭姬.

5- Đoạn khâm linh mệ 斷襟零袂: y phục rách rưới.

6- Ố trần 涴塵: vấy bụi bẩn.

7- Hoán : giặt giũ.

8- Tử khúc 紫曲: tức là “Tử mạch 紫陌” = đường phố trong kinh thành, nơi tác giả ở lúc xưa.  Cũng có thuyết nói “Tử khúc môn 紫曲門” chỉ nơi kỹ nữ ở. Tiểu sử của tác giả cho thấy khi ở Hàng Châu tác giá có nạp một người thiếp được biết với cái tên “Hàng cơ”, nguyên là ca nữ mà tác giả rất yêu quý.

9- Bại tỉnh 敗井: giếng đã đổ nát.

10- Thanh mạn 靑蔓: (cây cỏ) tràn lan.

11- Đông lân 東鄰: hàng xóm ở phía đông, phiếm chỉ hàng xóm.

12- Tạ đường 謝堂: Gia đình Tạ An 謝安 vào đời Tấn  là thế gia đại tộc, đến đời Đường  thì suy vi tan tác tứ xứ. Tác giả ám chỉ nhà hưng vượng khi xưa.

13- Đương niên 當年: năm ấy, năm xưa.

14- Tú ốc 繡屋: nhà đẹp, sang trọng.

15- Tần tranh 秦箏: cây đàn tranh cổ xưa, nguyên do một người nước Tần 秦 tên là Mông Điềm 蒙恬 cải biến nên gọi là Tần tranh. Ở đây chữ Tần tranh đại chỉ hòa nhạc.

16- Hải đường 海棠: ở Trung Hoa, cây hải đường có tên khoa học là Malus spectabillis, họ Rosaceae.

17- Thiên ái 偏愛: yêu mến riêng một ai đó.

18- Vũ hiết ca trầm 舞歇歌沉: không còn múa hát gì nữa.

19- Trữ cửu 佇久: đứng lâu.

 

Dịch Nghĩa

Cảm xúc khi đi qua chỗ ở cũ trong đô thành.

(Tác giả làm bài này để tưởng niệm người ái thiếp quá cố)

Tôi đã quen với cảnh núi non hồ nước trong những lúc uống rượu say sưa.

Cái áo mặc trong mùa xuân bị thấm đầy những vệt nước mắt và những vết rượu.

Tôi lại lần nữa đến viếng kinh đô Lâm An.

Than vãn y phục lam lũ,

Và vấy bụi bẩn, còn có ai giặt cho?

Xóm phường quen thuộc nay đã hoang vu,

Men theo cái giếng đổ nát, chỉ thấy gió lay động cây cỏ hoang dã mọc tràn.

Từ hàng xóm mé đông truyền lại tiếng đối đáp,

Đó là (đôi chim yến) từng làm tổ,

tại nhà họ Tạ xưa.

 

Giấc mộng xuân của người thế gian (cũng) phải (có lúc) ngừng.

Chỉ trách rằng, năm đó giấc mộng tình duyên lại ngắn ngủi như vậy.

Trong căn nhà hoa lệ tấu đàn tranh,

Bên cạnh cây hải đường quấn quít nhau,

Trong đêm khuya tiệc tùng.

(Đến nay những ngày hoan lạc) ca múa đã hết,

Hoa chưa giảm sắc, hồng nhan đã cải biến trước.

Tôi đứng hồi lâu trên cầu (tần ngần) muốn đi,

Nước mắt ràn rụa trong ánh tà dương.

 

Phỏng Dịch

 

1 Tam Xu Mị - Về Thăm Chốn Xưa

 

Hồ sơn quen túy lúy.

Thấm rượu lệ, đầm đìa áo xuân vô số.

Lữ khách Trường An,

Than áo quần lam lũ.

Lấm lem ai giũ.

Đường phố vắng không,

Men giếng nát, gió lay hoang cỏ.

Lối xóm lao xao,

Làm tổ khi xưa,

Yến về nhà cũ.

 

Xuân mộng nhân gian ngừng đó.

Chỉ đáng trách, năm xưa ngắn duyên tình vỡ.

Nhà thắm đàn tranh,

Cạnh hải đường mê luyến,

Tiệc tùng thâm dạ.

Múa dứt ca ngưng,

Hoa chưa héo, hồng nhan tàn rũ.

Đứng lặng trên cầu ngơ ngẩn,

Tà dương lệ nhỏ.

 

2 Về Thăm Chốn Xưa

 

Núi hồ say khướt đã quen,

Xuân xưa giọt lệ rượu hoen áo choàng.

Hôm nay lại đến Trường An,

Áo quần lam lũ thở than tâm tình.

 

Lấm bùn ai giặt cho mình?

Cửa nhà hoang dã, cũng đành men theo.

Giếng đổ nát cỏ tràn leo,

Đông lân thủ thỉ yến vào nhà xưa.

 

Phải phai tàn giấc xuân mơ,

Có chăng ngắn ngủi ngày thơ duyên lành.

Nhà hoa lệ, tiếng đàn tranh,

Hải đường quấn quít đêm thanh cỗ bàn.

 

Múa đã nghỉ, ca đã tàn,

Hoa chưa giảm sắc, hồng nhan úa mầu.

Tần ngần giây phút trên cầu,

Tà dương ảm đạm dòng châu lệ tràn.

 

HHD 1-2023

 

 

  

0 comments:

Post a Comment