Tuesday, November 21, 2023

Ngọc Hồ Điệp - Sử Đạt Tổ

玉蝴蝶 - 史達祖  Ngọc Hồ Điệp - Sử Đạt Tổ

 

晚雨未摧宮樹,         Vãn vũ vị tồi cung thọ,

可憐閑葉,                 Khả lân nhàn diệp,

猶抱涼                 Do bão lương thiền.

短景歸秋,                 Đoản cảnh quy thu,

吟思又接愁         Ngâm tứ hựu tiếp sầu biên.

漏初長、夢魂難禁,Lậu sơ trường, mộng hồn nan cấm,

人漸老、風月俱Nhân tiệm lão, phong nguyệt câu hàn.

想幽                      Tưởng u hoan.

土花庭                 Thổ hoa đình trứu,

蟲網闌                 Trùng võng lan can.

 

                          Vô đoan.

啼蛄攪夜,                 Đề cô giảo dạ,

恨隨團扇,                 Hận tùy đoàn phiến,

苦近秋                 Khổ cận thu liên.

一笛當樓,                 Nhất địch đương lâu,

謝娘懸淚立風     Tạ Nương huyền lệ lập phong tiền.

故園晚、強畱詩酒,Cố viên vãn, cưỡng lưu thi tửu,

新雁遠、不致寒Tân nhạn viễn, bất trí hàn huyên.

隔蒼                      Cách thương yên.

楚香羅袖,                  Sở hương la tụ,

誰伴嬋                 Thùy bạn thiền quyên.

 

Chú Thích

1- Ngọc hồ điệp 玉蝴蝶: tên từ bài. Bài này có 99 chữ, đoạn trước có 10 câu với 5 bình vận, đoạn sau có 11 câu với 6 bình vân. Cách luật:

 

X T X B X T cú

X X X T cú

X T B B vận

X T B B cú

X T X T B B vận

X B X, X B X T cú

X X T, X T B B vận

T B B vận

X B X T cú

X T B B vận

 

X B vận

X B X T cú

X B X T cú

X T B B vận

T T B B cú

X B X T T B B vận

T X X, X B X T cú

X X X, X T B B vận

T B B vận

X B X T cú

X T B B vận

 

B: thanh bình; T: thanh trắc; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Cung thọ 宮樹: cây trong vườn thượng uyển của cung vua.

3- Nhàn diệp 閑葉: có thể hiểu là cái lá cây bình thường. Nguyên câu “Khả liên nhàn diệp, Do bão lương thiền” thì tác giả đã lấy ý từ câu thơ trong bài “Đề cát khê dịch 题葛溪驛” của Vương An Thạch 王安石:

 

鳴蟬更亂行人耳,Minh thiền cánh loạn hành nhân nhĩ,

猶抱疏桐葉半 黃。Do bão sơ đồng diệp bán hoàng.

Tiếng ve kêu càng làm loạn tai người đi,

(Ve) còn ôm chiếc lá nửa vàng của cây ngô đồng thưa lá.

 

Do vậy trong bài này, chữ “Nhàn diệp” cũng có thể hiểu là lá vàng, héo.

 

4- Lương thiền 涼蟬: con ve sầu trong mùa mát tức là mùa thu hay “thu thiền”.

5- Đoản cảnh 短景: ban ngày dần ngắn lại trong mùa thu.

6- Sầu biên 愁邊: bên cạnh nỗi sầu, sầu đoan = mối sầu.

7- Lậu  = lậu hồ 漏壺: cái đồng hồ thời xưa dùng cát hay nước. Ban đêm dùng lậu hồ để biết thời khắc. Lậu sơ trường 漏初長: đêm bắt đầu dài ra.

8- Mộng hồn 夢魂: người xưa cho rằng linh hồn có thể xuất ra khỏi cơ thể khi nằm mộng vì vậy gọi linh hồn là mộng hồn.  

9- Nan cấm 難禁: khó chịu đựng nổi.    

10- Phong nguyệt 風月: tình trăng gió, tình luyến ái nam nữ.

11- U hoan 幽歡: hoan lạc khi âm thầm tụ hội với người thân.

12- Thổ hoa土花: rêu.

13- Trứu : cái thành giếng. Đình trứu 庭甃: cái thành giếng ở trong sân, phiếm chỉ cái giếng ở trong sân.

14- Trùng võng蟲網: màng nhện.  

15- Lan can 闌干: chữ lan can 闌干 có thể được hiểu là vật thể ngang và dọc. Chữ này cũng được hiểu là cái lan can 欄杆.

16- Cô : có 2 danh từ liên quan đến chữ “cô” là lâu cô 螻蛄 và huệ cô 蟪蛄. Lâu cô là con dế nhũi còn huệ cô là 1 loài ve sầu nhỏ. Không biết con dế nhũi có gáy vang trong đêm không? Còn con ve sầu thì chắc không kêu vào ban đêm. Như vậy chữ “cô” trong bài này phiếm chỉ một loại công trùng kêu vào ban đêm.     

17- Đoàn phiến 團扇: cái quạt tròn. Hận tùy đoàn phiến 恨隨團扇: hận rằng thân ta cũng giống như cái quạt tròn (bị bỏ xó vào mùa thu). Tương truyền rằng một cung nhân của triều Tây Hán 西漢là bà tiệp dư 婕妤họ Ban khi bị thất sủng đã làm bài ca tên là “Oán ca hành ” hay “Đoàn phiến ca 團扇歌” để tự thương thân phận mình, như cái quạt tròn chỉ được dùng trong mùa hè. Cũng có người nói bài này do văn học gia triều Tống 宋 thời Nam Triều 南朝 là Nhan Diên Chi 顏延之làm ra. Thực ra đây là bài hát của Nhạc Phủ 樂府theo âm điệu nước Sở 楚調曲và do một vị vô danh 無名氏đặt lời. Hai câu cuối của bài ca như sau:

 

棄捐笥中,Khí quyên khiếp tứ trung, Vất bỏ vào rương trúc,

恩情中道絕。Ân tình trung đạo tuyệt. Ân tình nửa đường đoạn tuyệt.

 

Ngoài ra thì Lưu Vũ Tích 劉禹錫 thời nhà Đường cũng làm một bài “Đoàn phiến ca 團扇歌”, ý tứ tương tự.

18- Khổ cận thu liên 苦近秋蓮: đắng gần như sen mùa thu. Giữa hột sen có 1 cái mầm mầu xanh vị đắng nên gọi là liên tâm khổ 蓮心苦.

19- Nhất địch đương lâu 一笛當樓: trong căn lầu thổi sáo.

20- Tạ nương 謝娘: có 2 giải đáp cho chữ Tạ nương. Thứ nhất: Tạ nương là người tài nữ giỏi cả thi văn lẫn hội họa. Điển tích do nàng Tạ Đạo Uẩn 謝道韞 hay Uẩn , vợ của thư pháp gia Vương Ngưng Chi 王凝之 đời Đông Tấn 東晉. Thứ hai là chỉ danh ca kỹ Tạ Thu Nương 謝秋娘, ái thiếp của Đường Tể Tướng Lý Đức Dụ 唐宰相李德裕. Về sau người ta dùng chữ Tạ Nương để phiếm chỉ ca nữ.

21- Huyền lệ 懸淚: rưng rưng sắp khóc.  

22- Cưỡng lưu 強畱 = 強留: cố ở lại lâu ngày.

23- Hàn huyên 寒暄: Hỏi thăm hoặc nói lời giao tế.   

24- Thương yên 蒼煙: mây mù bao la.

25- Sở hương 楚香: hương thơm của đất Sở, phiếm chỉ hương thơm.

26- La tụ 羅袖: tay áo lụa, mượn chỉ mỹ nhân.

27- Thiền (thuyền) quyên 嬋娟: dáng vóc mỹ lệ, chỉ mỹ nhân.

 

Dịch Nghĩa

Tác giả làm bài này sau khi bị đầy ra Giang Hán江漢.

 

Mưa chiều chưa làm gẫy đổ cây trong cung vua,

Chiếc lá héo vàng đáng thương,

Còn ôm ấp con ve mùa thu.

Ngày ngắn dần trong mùa thu,

Ý ngâm vịnh lại tiếp thông nỗi sầu biên ải.

Đồng hồ đo đêm hơi dài làm mộng hồn tôi khó chịu đựng nổi,

Người dần tới lão niên thì tình trăng gió đều nguội lạnh.

Nghĩ tới nơi hoan lạc êm đềm xưa, hẳn nay thành giếng trong sân đã phủ rêu phong,

Màng nhện giăng đầy ở lan can.

 

Không duyên không cớ,

Côn trùng kêu khuấy động ban đêm,

Hận rằng mình bị ruồng bỏ như cái quạt bị bỏ xó trong mùa thu,

Đau khổ như sen mùa thu.

(Lúc xưa) thổi sáo giữa lầu,

Nàng rưng rưng đứng trước gió.

Vườn xưa về khuya, cố uống rượu ngâm thơ,

(Nay) nhạn mới đã bay xa, không giúp truyền thơ thăm hỏi.

Cách trở mây khói mênh mông.

Mỹ nhân tay áo lụa bay hương,

Ai bồi bạn nàng.

 

Phỏng Dịch

 

1 Ngọc Hồ Điệp - Tưởng Về Chốn Xưa

 

Mưa tối chưa vùi cây cỏ,

Đáng thương chiếc lá,

Còn cõng ve hàn.

Ngày ngắn vào thu,

Ngâm vịnh tiếp mối sầu lan.

Đêm về khuya, mộng hồn không cấm,

Người già lão, trăng gió đều tan.

Tưởng quê làng.

Giếng cằn rêu phủ,

Mạng nhện lan can

 

Vô đoan.

Khuấy đêm tiếng dế,

Quạt tròn ôm hận,

Khổ đến sen tàn.

Tiếng sáo ngang lầu,

Nàng rưng lệ trước gió miên man.

Tối vườn xưa, vẫn chung thơ rượu,

Không thư tín, cánh nhạn quan san.

Cách mây ngàn.

Hương thơm tà áo,

Ai bạn phòng loan.

 

2 Tưởng Về Chốn Xưa

 

Cây cỏ chưa tàn mưa tối vây,

Đáng thương chiếc lá cõng ve gầy.

Vào thu ngày ngắn dần mau tối,

Ngâm vịnh tiếp theo sầu chất đầy.

 

Mộng hồn không cấm lúc canh tàn,

Phong nguyệt tiêu tan tuổi lão nhân.

Nhớ mấy vui xưa nơi cố lý,

Giếng đình rêu mốc nhện lan can.

 

Vô cớ đêm thanh dế khuấy vang,

Hận như cái quạt, sen thu sang.

Sáo đàn vui nhộn xưa lầu thắm,

Trước gió rưng rưng giọt lệ nàng.

 

Quê cũ rượu thơ đêm gắng gượng,

Xa xăm cánh nhạn ngại hàn huyên.

Cách khói mây, hương thơm áo lụa,

Phòng loan ai kẻ bạn thuyền quyên!

 

HHD 7-2023  

 

 

  

0 comments:

Post a Comment