Thursday, August 8, 2019

Thủy Long Ngâm - Tô Thức

水龍吟 - 蘇軾  Thủy Long Ngâm – Tô Thức
次韻章質夫楊花詞  Thứ vận Chương Chất Phu Dương Hoa từ

似花還似非花,         Tự hoa hoàn tự phi hoa,
也無人惜從教     Dã vô nhân tích tùng giao trụy,
拋家傍路,                 Phao gia bàng lộ,
思量卻是,                 Tư lượng khước thị,
無情有                 Vô tình hữu tứ.
縈損柔腸,                 Oanh tổn nhu trường,
困酣嬌眼,                 Khốn hàm kiều nhãn,
欲開還                 Dục khai hoàn bế.
夢隨風萬里,             Mộng tùy phong vạn lý,
尋郎去處,                 Tầm lang khứ xứ,
又還被、鶯呼     Hựu hoàn bị, oanh hô khởi.

不恨此花飛盡,         Bất hận thử hoa phi tận,
恨西園、落紅難。 Hận tây viên, lạc hồng nan xuyết.
曉來雨過,                 Hiểu lai vũ quá,
遺蹤何在,                 Di tung hà tại,
一池萍                 Nhất trì bình toái.
春色三分,                 Xuân sắc tam phân,
二分塵土,                 Nhị phân trần thổ,
一分流                 Nhất phân lưu thủy.

細看來不是楊花點點,Tế khan lai, bất thị dương hoa điểm điểm,

是離人                 Thị ly nhân lệ.


Chú Thích
1- Thủy Long ngâm 水龍吟: tên từ điệu, còn có tên khác là Long ngâm khúc 龍吟曲, Trang xuân mộng 庄椿岁, Tiểu lâu liên uyển 小楼连苑. Từ này có 102 chữ. Đoạn trước và đoạn sau đều có 11 câu và 4 trắc vận. Cách luật của bài này tương đồng với cách luật của Tần Quan trong bài “Tiểu lâu liên uyển hoành không 小樓連苑橫空”:

 

X B X T B B cú

X B X T B B T vận

X B X T cú

X B X T cú

X B X T vận

X T B B cú

X B B T cú

X B B T vận

T X B X T cú

X B X T cú

X X T, B B T vận

  

X T X B X T cú

T B X, X B X T vận

X B T T cú

X B X T cú

X B X T vận

X T B B cú

X B X T cú

X B B T vận

T B B, T T B B T T cú

T B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

2- Thứ vận 次韻: họa lại 1 bài từ khác theo nguyên vận.
3- Chương Chất Phu 章質夫: tức là Chương Kiệt章楶 (còn đọc là Chương Tiết), người Phố Thành 浦城 (nay thuộc tỉnh Phúc Kiến 福建, TH), thường cùng Tô Thức thi từ xướng họa.
4- Dương hoa từ 楊花詞: Bài từ Thủy long ngâm của Chương Chất Phu có tựa đề là Dương Hoa.
5- Tùng giao 從教: mặc cho.
6- Phao gia 拋家: bỏ nhà, ý nói hoa dương lìa cành rơi xuống.
7- Bàng lộ 傍路: đến bên vệ đường.
8- Tư lượng 思量: suy nghĩ.
9- Tứ : tâm tự, mối nghĩ ngợi, ý tứ.  Vô tình hữu tứ 無情有思: không có tình nhưng có ý. Câu này muốn nói cánh hoa lìa cành tựa như vô tình nhưng tự nó cũng có nỗi buồn.
10- Oanh : oanh nhiễu 縈繞 = quấy nhiễu, bứt rứt.
11- Nhu trường 柔腸: tấc lòng mềm mại, ở đây ám chỉ nhánh liễu dài mềm mại như câu thơ của Bạch Cư Dị 白居易 trong bài Dương Liễu Chi 楊柳枝: Nhân ngôn liễu diệp tự sầu mi, Cánh hữu sầu trường như liễu chi 人言柳葉似愁眉, 更有愁腸如柳枝: người nói lá liễu như sầu mi, lại có tấc lòng buồn như cành liễu.
12- Khốn hàm 困酣: vô cùng mệt mỏi.
13- Kiều nhãn 嬌眼: mắt đẹp của mỹ nhân, ở đây ám chỉ lá liễu. Thi văn cổ thường gọi lá liễu non là liễu nhãn 柳眼.
14- Khứ xứ 去處: nơi xa.
15- Hô khởi : gọi dậy.
16- Mộng tùy phong vạn lý, Tầm lang khứ xứ, Hựu hoàn bị oanh hô khởi 夢隨風萬里, 尋郎去處, 又還被鶯呼起: lấy ý từ bài “Xuân oán” của Vương Xương Linh:

Đả khởi hoàng oanh nhi, 打起黃鶯兒, đánh đuổi con chim vàng anh,
Mạc giao chi thượng đề. 莫教枝上啼. đừng để nó kêu trên cành.
Đề thời kinh thiếp mộng, 啼時驚妾夢, nó kêu làm kinh động giấc mơ của thiếp,
Bất đắc đáo Liêu Tây 不得到遼西. Không đến được chốn Liêu Tây (với chàng).

17- Lạc hồng 落紅: cánh hoa rụng.
18- Xuyết (chuyết, chuế) : kết nối, khâu lại.
19- Di tung 遺蹤: tung tích còn để lại.
20- Nhất trì bình toái 一池萍碎: một ao bèo vụn. Tô Thức tự chú thích rằng hoa dương  rơi xuống nước làm thành bèo nổi.
21- Xuân sắc 春色: mầu sắc mùa xuân, ám chỉ hoa dương.
22- Tế khan 細看: xem kỹ.
23- Ly nhân lệ 離人淚: nước mắt người ra đi.

Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu Thủy long ngâm của Tô Thức.
Họa vận bài từ Dương hoa của Chương Chất Phu.

Tựa như hoa lại tựa như không phải hoa,
Cũng không ai thương tiếc để mặc cho nó rơi.
Lià cành đến bên ven đường,
Suy nghĩ kỹ thì lại là,
Tuy như vô tình nhưng có ý buồn bã.
Bứt rứt trong lòng,
Mi mắt mệt mỏi,
Muốn mở nhưng vẫn còn nhắm.
Giấc mơ theo gió đi muôn dặm,
Tìm chàng nơi xa,
Lại còn bị chim oanh gọi dậy.

Không hận hoa này bay hết,
Mà hận vườn tây cánh hoa rụng khó kết nối lại được.
Sáng ra có mưa đến,
Tung tích (của hoa) nơi đâu,
Một ao (hoa dương như) bèo vụn.
Mầu xuân (hoa dương chia thành) ba phần,
Hai phần (hoá thành) bụi bặm,
Một phần (trôi theo dòng) nước chẩy.
Xem kỹ lại thì không phải là những điểm hoa dương,
(Mà) là nước mắt người ra đi.


Phỏng Dịch

1 Thủy Long Ngâm – Dương Hoa Từ

 

Tự hoa mà chẳng là hoa,

Cũng không ai tiếc tàn hoa trụy.

Lià cành ven lộ.

Suy ra thì đó,

Vô tình có ý.

Bứt rứt trong lòng,

Rã rời mi mắt,

Nhắm nghiền chưa hé.

Mộng gió đưa vạn dặm,

Tìm chàng khắp chốn,

Oanh kêu dậy, và còn bị. 

 

Không hận hoa này bay hết,

Hận vườn tây, chắp hoa không thể.

Mưa rơi sáng sớm,

Tìm đâu tung tích,

Một ao bèo tí.

Xuân sắc ba phần,

Hai phần đất bụi,

Một phần lưu thủy.

Kỹ xem đây, chẳng phải hoa dương điểm điểm,

Kẻ đi rơi lệ.

 

2 Dương Hoa Từ


Tựa hoa mà tựa chẳng là hoa,
Rơi rụng không ai người xót xa.
Lìa cành bay đến bên ven lộ,
Nghĩ kỹ vô tình ý thiết tha.

Tâm hồn tan nát,
Mệt mỏi đôi mi.
Muốn mở còn nhắm,
Mộng theo gió đi.

Vạn dặm, tìm chàng khắp chốn xa,
Chim oanh lay tỉnh mộng la đà.
Cánh hồng bay hết không buồn hận,
Kết nối không thành thương kiếp hoa.

Sáng ra mưa đến,
Tung tích nơi đâu?
Hóa thành bèo vụn,
Quanh quẩn ao sâu.

Ba phần cảnh sắc xuân dung nhan,
Tro bụi hai phần những cánh tàn.
Còn lại nổi trôi theo sóng nước,
Hoa dương từng điểm lệ ly tan.


HHD 9-2019



0 comments:

Post a Comment