Thursday, July 1, 2021

Túy Lạc Thác - Tô Thức

醉落魄 - 蘇軾   Túy Lạc Thác – Tô Thức

席上呈元素   Tịch thượng trình Nguyên Tố

 

分攜如                 Phân huề như tạc.

人生到處萍飄Nhân sinh đáo xứ bình phiêu bạc.

偶然相聚還離Ngẫu nhiên tương tụ hoàn ly tác.

多病多愁,                 Đa bệnh đa sầu,

須信從來             Tu tín tùng lai thác.

 

尊前一笑休辭Tôn tiền nhất tiếu hưu từ khước.

天涯同是傷淪Thiên nhai đồng thị thương luân lạc.

故山猶負平生Cố sơn do phụ bình sinh ước.

西望峨嵋,                 Tây vọng Nga Mi,

長羨歸飛             Trường tiện quy phi hạc.

 

Chú Thích

1- Túy lạc thác 醉落魄: tên từ bài, tên khác là “Nhất hộc châu一斛珠”, “Oán xuân phong怨春風”, “Chương đài nguyệt章台月”. Bài từ này có 57 chữ, 2 đoạn toàn trắc vận. Cách luật:  

 

X X X T vận

X B X T B B T vận

X X X X B B T vận

X T B B cú

X T X X T vận

 

X B X T B X T vận

X B X T B B T vận

X X X X B B T vận

X T B B cú

X T X X T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Nguyên Tố元素: người Tứ Xuyên四川, họ Dương tên Hội, tự là Nguyên Tố元素, bạn đồng hương của Tô Thức.

3- Phân huề分携: phân biệt, chia tay.

4- Đáo xứ到處: khắp nơi.

5- Bình phiêu bạc萍漂泊: bèo trôi nổi trên mặt nước.

6- Tương tụ相聚: tụ họp với nhau.

7- Ly tác離索 = ly quần tác cư离群索居: rời bỏ đàn, sống cô độc.

8- Tu tín須信: Nên biết, tin rằng, biết rằng.

9- Tùng lai 從來: từ quá khứ đến hiện tại.

10- Tôn tiền尊前: trước chén rượu.

11- Hưu: chớ, đừng.

12- Thiên nhai天涯: nơi chân trời, chỉ nơi xa xứ sở quê hương.

13- Luân lạc淪落: ở trong hoàn cảnh không thuận lợi khi xa xứ. Thiên nhai đồng thị thương luân lạc 天涯同是傷淪落: chúng ta đều là những người lăn lộn đau buồn nơi chân trời. Mượn ý một câu thơ của Bạch Cư Dị 白居易trong bài Từ Bà Hành 琵琶行: “Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân 同是天涯淪落人: cùng là người lăn lộn nơi chân trời”.

14- Cố sơn故山: chỉ cố hương.

15- Bình sinh ước平生約: nguyện ước trong đời.

16 Nga mi峨眉: núi Nga Mi ở Tứ Xuyên四川, đại chỉ cố hương của Tô Thức và Dương Hội.   

17- Trường tiện 長羨: luôn hâm mộ.

18- Quy phi hạc歸飛鶴: chim hạc bay về cố hương. Sách “Sưu thần hậu ký搜神後記” chép rằng vào đời Tây Hán có người Đinh Linh Uy丁令威, vốn quê Liêu Đông遼東, học đạo ở Linh Hư Sơn靈虚山. Sau khi đắc đạo, ông hoá thành con chim hạc bay về quê cũ, đậu trên “Hoa biểu trụ華表柱 = cây trụ chạm trổ hoa văn, dựng trước cửa cung hay cửa thành làm trang sức”. Thiếu niên trong thành dương cung định bắn. Chim hạc bay lên trời và bồi hồi nói vọng xuống rằng:

 

有鳥有鳥丁令威,Hữu điểu hữu điểu Đinh Linh Uy,

去家千年今始歸。Khứ gia thiên niên kim thủy quy.

城郭如故人民非,Thành quách như cố nhân dân phi,

何不學仙冢壘壘!Hà bất học tiên trủng lũy lũy!

Có chim có chim Đinh Linh Uy,

Bỏ nhà ngàn năm nay mới về.

Thành quách như xưa nhân dân khác,

Sao không học đạo tiên, mả chôn chồng chất.”

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: trình cho Nguyên Tố trong buổi tiệc rượu.

 

Buổi chia tay lần trước như mới xẩy ra ngày hôm qua.

Đời người khắp nơi phiêu bạc như bèo trôi nổi.

Ngẫu nhiên gặp nhau đây nhưng rồi sẽ lại chia tay.

Vì nhớ bạn mà chịu bao nhiêu sầu khổ.

Nên biết việc (chia ly) từ trước đến nay là sai lạc.

 

Hãy cười lên và đừng từ khước chén rượu (ly biệt) này.

Chúng ta cùng là những người lăn lộn đau buồn nơi chân trời.

Vẫn còn phụ rẫy điều ước hẹn quy ẩn nơi cố hương.

Hãy nhìn về hướng tây núi Nga Mi là quê hương ta.

Luôn ngưỡng mộ chuyện chim hạc bay về cố hương (ngưỡng vọng ngày về cố hương quy ẩn).

 

Phỏng Dịch

Thiên Nhai biệt Cố Nhân

 

Chia tay lần trước tưởng hôm qua,

Phiêu bạc đời bèo khắp chốn xa.

Đoàn tụ ngẫu nhiên trong chốc lát,

Rồi đây sầu khổ bệnh đôi ta.

 

Từ biệt phút này chén rượu cay,

Cười lên uống cạn tình nồng say.

Nỗi buồn luân lạc chân trời thẳm,

Nguyện ước điền viên tiếc lắm thay.

 

Nhìn về cố lý phương trời tây,

Ngẫm nghĩ chuyện xưa chim hạc bay.

Tha hương mòn mỏi tình quê cũ,

Về đến chốn xưa tựa bóng mây.

 

HHD 02-2021

 

  

0 comments:

Post a Comment