Tuesday, December 28, 2021

Hạ Tân Lang - Tân Khí Tật

賀新郎 - 辛棄疾  Hạ Tân Lang – Tân Khí Tật

賦水仙  Phú thủy tiên

 

雲卧衣裳                       Vân ngọa y thường lãnh.

看蕭然、風前月下,          Khán tiêu nhiên, phong tiền nguyệt hạ,

水邊幽                           Thủy biên u ảnh.

羅襪生塵凌波去,              La mạt sinh trần lăng ba khứ,

湯沐煙波萬                   Thang mộc yên ba vạn khoảnh.

愛一點、嬌黃成          Ái nhất điểm, kiều hoành thành vựng

不記相逢曾解佩,              Bất ký tương phùng tằng giải bội,

甚多情、為我香成      Thậm đa tình, vi ngã hương thành trận.

待和淚,                               Đãi hòa lệ,

收殘                               Thu tàn phấn.

 

靈均千古懷沙              Linh quân thiên cổ hoài sa hận.

恨當時、匆匆忘把,          Hận đương thời, thông thông vong bả,

此仙題                           Thử tiên đề phẩm.

煙雨悽迷僝僽⒂損,          Yên vũ thê mê sàn sậu tổn,

翠袂搖搖誰                   Thúy mệ dao dao thùy chỉnh?

謾寫入、瑤琴幽          Mạn tả nhập, dao cầm u phẫn.

絃斷招魂無人賦,               Huyền đoạn chiêu hồn vô nhân phú,

但金盃的皪銀台          Đãn kim bôi đích lịch ngân đài nhuận.

愁殢酒,                               Sầu thế tửu,

又獨                               Hựu độc tỉnh.

 

     

Chú Thích

1- Hạ tân lang賀新郎: tên từ bài, tên khác “Hạ tân lương賀新涼”, “Nhũ phi yến乳飛燕”, “Phong xao trúc風敲竹”. Toàn bài có 116 chữ, mỗi đoạn 10 câu với 6 trắc vận. Cách luật:

 

B T B B T vận

T B B, B B T T cú

T B B T vận

B T B B B B T cú

B T B B T T vận

T T T, B B B T vận

T T B B B T T cú

T B B, T T B B T vận

T B T cú

B B T vận

 

T B T T B B T vận

T B B B B B T cú

T B B T vận

B T B B B T T cú

T T B B B T vận

T T T, B B B T vận

B T B B B B T cú

T B B T T B B T vận

B T T cú

T T T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Vân ngọa 雲卧: nằm trên mây mù, ý nói ẩn cư. Vân ngọa y thường lãnh 雲卧衣裳冷: mượn câu thơ của Đỗ Phủ 杜甫 trong bài “Du long môn Phụng Tiên tự 游龍門奉先寺”:

 

天闕象緯*逼,Thiên khuyết tượng vĩ bức,

雲卧衣裳冷。Vân ngọa y thường lãnh.

Cửa trời gần với nhật nguyệt và ngũ tinh,

“(Như) nằm trên mây, cái lạnh thấy y phục”.

*Tượng vĩ: mặt trời, mặt trăng và 5 ngôi sao kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

 

3- Tiêu nhiên 蕭然: tiêu sái, không khoáng tĩnh lặng, tiêu điều. Bản khác chép “Tiêu nhiên 翛然”: cùng một ý nghĩa.

4- U ảnh 幽影: cảnh sắc yên tĩnh, vắng vẻ.

5- La mạt (miệt) 羅襪: bí tất làm bằng lụa. La mạt sinh trần 羅襪生塵: nơi bít tất lụa có bụi sinh ra, mượn câu thơ trong bài “Lạc thần phú 洛神賦” của Tào Thực曹植, đời Tam Quốc, tả bước đi yểu điệu của người phụ nữ:

 

凌波微步,Lăng ba vi bộ, Bước nhỏ lướt trên sóng, 

羅襪生塵。La mạt sinh trần. Nơi bí tất lụa có bụi nước sinh ra.

 

6- Lăng ba 凌波: bước trên sóng, đi trên mặt nước.

7- Thang mộc 湯沐: tắm gội.

8- Yên ba 煙波: khói sóng, sương mù trên dòng sông. Bản khác chép “Yên giang 煙江: khói trên sông”.

9- Kiều hoàng thành vựng 嬌黃成暈: mầu vàng đẹp tạo thành quầng sáng, chỉ nhụy vàng của hoa thủy tiên.

10- Giải bội 解佩: cởi bỏ trang sức đeo trên người. Theo sách “Liệt tiên truyện 列仙傳” của Lưu Hướng 劉向đời Tây Hán 西漢 thì người Trịnh Giao Phủ 鄭交甫khi đi chơi ở bờ sông Hán Giang 漢江đã gặp 2 tiên nữ sẵn sàng cởi viên ngọc đeo trên ngực để tặng cho Trịnh Giao Phủ. Từ đó có thành ngữ “Giải bội”.  

11- Hương thành trận 香成陣: bản khác chép “Hương trần trận 香塵陣” ý nói hương thơm tỏa ra.

12- Đãi = “tương yếu 將要: sẽ nên”, hoặc là “đả toán 打算: có ý định”.

13- Thu tàn phấn 收殘粉: thu thập những hạt phấn tàn. Bản khác chép “Uấn tàn phấn 搵殘粉”: lau chùi những hạt phấn tàn.

14- Linh Quân 靈均: tên tự của Khuất Nguyên 屈原, văn học gia đời Chiến quốc.

15- Hoài sa 懷沙: Trong bài Sở từ “Cửu chương 九章” của Khuất Nguyên 屈原 đời chiến quốc có 1 chương tên là “Hoài sa” than vãn những bất hạnh tác giả đã gặp trong đời.

16- Hận đương thời 恨當時: bản khác chép “Ký đương thời 記當時”.

17- Vong bả 忘把: quên khuấy, tác giả dùng chữ này để ám chỉ việc Khuất Nguyên quên không nói đến hoa thủy tiên trong bài Sở Từ 楚辭 mô tả các hương thảo.

18- Thử tiên 此仙: hoa thủy tiên này. Bản khác chép “Thử hoa”.

19- Sàn sậu 僝僽: ưu sầu, phiền não. Sàn sậu tổn: nhiều phiền não.

20- Thúy mệ 翠袂 = thúy tụ 翠袖 tay áo mầu xanh, chỉ y phục của nữ giới hoặc chỉ nữ giới. Trong bài này chữ “Thúy mệ” ám chỉ lá cây thủy tiên.

21- Mạn tả 謾寫 = mạn tả 漫寫: tùy ý tả tác.

22- Dao cầm 瑤琴: cây đàn bằng ngọc dao, cây đàn quý. Tác giả muốn nhắc đến khúc đàn cổ của Bá Nha 伯牙tên là bài “Thủy tiên tháo 水仙操”, không phải chuyên tả hoa thủy tiên mà lại nói về câu chuyện “Chiêu Quân xuất tái  昭君出塞: Chiêu Quân ra biên ải”.  

23- U phẫn 幽憤: âm thầm phẫn hận. Oán phẫn giữ trong tim.

24- Chiêu hồn 招魂: tên một bài Sở từ 楚辭 đời chiến quốc, của Khuất Nguyên 屈原 hoặc là của Tống Ngọc 宋玉. Bài này mô phỏng theo tế lễ chiêu hồn của dân gian.

25- Đích lịch 的皪: sáng láng, tươi sáng.

26- Ngân đài 銀台: vầng trăng, vầng trăng sáng.

27- Thế tửu 殢酒: chìm đắm trong rượu chè. Say rượu.

28- Độc tỉnh 獨醒: chỉ một mình là thanh tỉnh. Lấy chữ từ bài Sở từ tên là “Ngư phụ 漁父” của tác giả vô danh thời chiến quốc:

 

舉世皆濁我獨清,Cử thế giai trọc ngã độc thanh,

眾人皆醉我獨醒。 Chúng nhân giai túy ngã độc tỉnh.

Thế giới đều đục mình tôi trong,

Mọi người đều say mình tôi tỉnh.”

 

Dịch Nghĩa

Vịnh hoa thủy tiên.

Như nằm trên mây khiến y phục thấm lạnh.

Xem (hoa thủy tiên) tiêu sái trước gió dưới ánh trăng,

Bên bờ sông nước, phơi hình ảnh cô đơn âm thầm.

Như nơi bí tất lụa (của mỹ nữ) sinh ra bụi (nước), vượt sóng đi, 

Như (mỹ nữ) tắm gội trong khói sóng bao la trăm vạn mẫu.

(Tôi) thích 1 điểm của thủy tiên là nhụy vàng đẹp tạo thành quầng.

Hoa thủy tiên tuy không nhớ rằng đã từng cởi nữ trang (tặng bạn) khi gặp nhau, (Ví hoa thủy tiên như tiên nữ).

Nhưng rất đa tình, vì tôi mà hương thơm tỏa ra.

(Tôi) có ý định sẽ cùng với nước mắt…

Thu thập hương phấn tàn (khi hoa héo rụng).

 

Hoặc giả trong bài phú “Hoài sa” của Khuất nguyên lưu truyền thiên cổ có bao hàm những tiếc nuối.

Những tiếc nuối lúc đó, (viết) vội vàng đã quên khuấy,

Phẩm bình hoa thủy tiên này.

(Hoa thủy tiên) trong khói mưa thê lương và mê mang rất ưu sầu,

Những lá thủy tiên lắc lư lay động không ai chỉnh.

Tùy tiện tả tác, khúc nhạc dao cầm tả nỗi phẫn hận trong lòng.

Sau khi dây đàn đứt, không ai làm bài phú chiêu hồn.

Chỉ còn chén vàng sáng láng và vầng trăng bạc mịn bóng.

(Thế nhân) say sưa tiêu sầu,

Lại chỉ một mình ta thanh tỉnh.

 

Phỏng Dịch

 

1 Hạ Tân Lang - Vịnh Hoa Thủy Tiên 

 

Y phục nằm mây lạnh,

Thấy tiêu điều, Dưới trăng trước gió,

Bến sông u ảnh.

Thần nữ ngao du trên đầu sóng,

Mù mịt ba đào vạn khoảnh.

Mến một điểm, nhụy vàng lấp lánh.

Chẳng nhớ tương phùng từng cởi ngọc,

Rất đa tình, vì tớ hương dâng mạnh,

Hãy tuôn lệ,

Thu tàn phấn.

 

Khuất Nguyên thiên cổ bài thơ hận.

Hận khi xưa, vội vàng quên mất,

Thủy tiên so sánh.

Mưa gió thê lương buồn thảm đạm,

Lá biếc đong đưa ai chỉnh?

Tả tác khúc, dao cầm bi cảnh.

Dây đứt chiêu hồn nào ai viết,

Chỉ ly vàng tươi đẹp vầng trăng ánh.

Sầu đắm rượu,

Một tớ tỉnh.

 

2- Vịnh Hoa Thủy Tiên

 

Nằm mây y phục đượm hơi lạnh,

Trước gió dưới trăng phơi lá cành.

Thân hình tiều tụy bên bờ nước,

Thần nữ trên sông lướt sóng xanh.

 

Tắm gội khói sương đường vạn khoảnh,

Mến yêu vòng nhụy vàng long lanh.

Tương phùng cởi ngọc đâu còn nhớ,

Hương tỏa đa tình ý đẹp xinh.

 

Ước nguyện ngày sau tràn ngấn lệ,

Thu gom hương phấn nhớ tình xa.

Thi nhân thiên cổ từng ôm hận,

Bình phẩm quên đi một kiếp hoa.

 

Sương khói thê lương buồn thảm đạm,

Lá cành xơ xác ai người ngắm.

Hận lòng viết khúc nhạc dao cầm.

Dây đứt chiêu hồn môi vẫn ngậm.

 

Sáng tươi một mảnh chén vàng,

Trong xanh trăng bạc một vầng trên cao.

Say sưa túy lúy đời sầu,

Một mình tỉnh táo nhớ mầu thủy tiên.

 

HHD 12-2021

 

 

0 comments:

Post a Comment