Friday, July 5, 2019

Mãn Đình Phương 2 - Tần Quan


滿庭芳 - 秦觀  Mãn Đình Phương - Tần Quan

曉色雲開,                 Hiểu sắc vân khai,
春隨人意,                 Xuân tùy nhân ý,
驟雨才過還晴。         Sậu vũ tài quá hoàn tình.
古臺芳榭,                 Cổ đài phương tạ,
飛燕蹴紅英。             Phi yến xúc hồng anh.
舞困榆錢自落,         Vũ khốn du tiền tự lạc,
鞦韆外、綠水橋平。Thu thiên ngoại, lục thủy kiều bình.
東風裏,                      Đông phong lý,
朱門映柳,                 Chu môn ánh liễu,
低按小秦箏。             Đê án tiểu tần tranh.

多情,                          Đa tình,
行樂處,                      Hành lạc xứ,
珠鈿翠蓋,                 Châu điền thúy cái,
玉轡紅纓。                 Ngọc bí hồng anh.
漸酒空金榼,             Tiệm tửu không kim khạp,
花困蓬瀛。                 Hoa khốn bồng doanh.
豆蔻梢頭舊恨         Đậu khấu tiêu đầu cựu hận,
十年夢、屈指堪惊。Thập niên mộng, khuất chỉ kham kinh.
憑闌久,                      Bằng lan cửu,
疏煙淡日,                 Sơ yên đạm nhật,
寂寞下蕪城。             Tịch mịch hạ Vu thành.

Chú Thích
1- Hiểu sắc 曉色: sắc trời lúc sáng sớm.
2- phương tạ 芳榭: lâu đài hoa lệ bên bờ nước.
3- Xúc : đá.
4- Hồng anh 紅英: câu này ám chỉ cánh hoa bay xuống.
5- Vũ khốn 舞困: múa may làm cho choáng váng.
6- Du tiền 榆: quả của cây du có hình dạng như đồng tiền nhỏ, có thể ăn được. Du : một loại cây lớn có gỗ cứng.
7- Thu thiên 鞦韆= thu thiên 秋千: cái xích đu, một dụng cụ thịnh hành thời xưa, ngồi lên rồi lắc lư cho vui. Có khi được gọi là thiên thu 韆鞦.
8- Lục thủy kiều bình 綠水橋平: mặt nước sông dâng cao ngang với cái cầu.
9- Án : tấu đàn, gẩy đàn.
10- Tần tranh 秦箏: cây đàn tranh của nước Tần xưa có 13 dây.
11- Châu điền 珠鈿: châu bảo và vàng làm trang sức.
12- Thúy cái 翠蓋: trên đỉnh xe, trên lọng che có gắn lông chim phỉ thúy 翡翠, phiếm chỉ xe ngựa hoa mỹ. Chữ thúy cái cũng là tên 1 loại hoa lan cymbidium.
13- Châu điền thúy cái 珠鈿翠蓋: hình dung xe ngựa được trang sức hoa lệ.
14- Ngọc bí 玉轡: dây cương ngựa có khảm ngọc.
15- Hồng anh 紅纓: dải tua dua mầu đỏ.
16- Ngọc bí hồng anh 玉轡紅纓: hình dung con ngựa được trang sức hoa quý.
17- Kim khạp 金榼: chén uống rượu bằng vàng. Bản khác chép kim giác金榷, cùng một ý nghĩa.
18- Hoa : chỉ mỹ nhân.
19- Bồng doanh 蓬瀛: Đảo Bồng lai 蓬萊 và Doanh châu 瀛州, nơi tiên ở. Trong bài này chữ bồng doanh ám chỉ nơi uống rượu tiệc tùng.
20- Hoa khốn bồng doanh 花困蓬瀛: Mỹ nhân mệt mỏi ở trên đảo tiên, trong bài này có nghĩa là mỹ nhân đã uống say trong bữa tiệc.
21- Đậu khấu tiêu (sao) đầu 豆蔻梢頭: ngọn cây đậu khấu, ám chỉ người thiếu nữ đương tuổi hoa niên. Mượn câu thơ trong bài Tặng biệt 贈別 của Đỗ Mục 杜牧:

娉娉嫋嫋十三餘,Sính sính niểu niểu thập tam dư,
豆蔻梢頭二月初。Đậu khấu tiêu đầu nhị nguyệt sơ.
春風十里揚州路,Xuân phong thập lý Dương châu lộ,
捲上珠簾總不如。Quyển thượng châu liêm tổng bất như.
(chữ sính còn đọc là phinh, chữ niểu còn đọc là niễu hay niệu)
Có nghĩa là:
Tư thái đẹp gái, cử chỉ khoan thai yểu điệu, hơn 13 tuổi,
Như một ngọn đậu khấu vào đầu tháng 2 (còn đang hàm nụ).
Tìm hết cả 10 dặm đường hoa lệ ở Dương châu,
Cuốn rèm châu lên (Để thấy rõ mặt các vị phấn đại) không ai sánh bằng cô ta.

22- Khuất chỉ 屈指: bấm đốt ngón tay đếm nhẩm.
23- Kham kinh 堪惊: chịu đựng sự kinh hãi. Bản khác chép kham kinh 堪驚: cùng một ý nghĩa.
24- Thập niên mộng, khuất chỉ kham kinh 屈指堪惊: Mười năm như một giấc mộng, bấm đốt ngón tay tính nhẩm mới kinh hãi thấy thời gian qua mau. Câu này lấy ý từ 1 câu trong bài thơ “Khiển hoài 遣懷” của Đỗ Mục: “Thập niên nhất giác Dương Châu mộng十年一覺揚州夢: mười năm trải qua ở Dương Châu mới bừng tỉnh như qua 1 giấc mộng”.
25- Sơ yên đạm nhật疏煙淡日:  sơ yên có nghĩa là khói thưa. Sơ yên đạm nhật có ý nói thời gian qua với cảnh sắc tịch mịch tẻ nhạt.
26- Vu thành 蕪: do bài phú Vu thành phú 蕪城賦 của Bào Chiếu 鮑照, đời Nam Triều Tống, nói về thành Dương Châu lúc đó bị bỏ hoang phế (vu : hoang phế, cỏ mọc rậm rạp tạp loạn) mà người đời sau dùng chữ Vu thành để chỉ Dương Châu thành hay còn gọi là Quảng Lăng thành 廣陵城.

Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu mãn đình phương của Tần Quan.
Trời hừng sáng, mây tan hết,
Ngày xuân đẹp tùy theo ý hứng của người,
Trận mưa rào vừa đi qua, trời chuyển thạnh ráo.
Đình đài cổ xưa, nhà thủy tạ hoa lệ,
Chim yến bay qua khóm hoa, đá rơi những cánh hoa,
Quả du tiền như choáng váng vì múa may và tự rụng xuống,
Ở phía ngoài cái xích đu, nước xanh (trong suối) đã dâng lên ngang với cái cầu.
Trong gió xuân,
Cửa son ánh qua nhành dương liễu,
Có tiếng đàn tranh nhỏ nhè nhẹ (truyền lại).

(Người) đa tình,
Vui chơi mọi nơi,
Châu bảo trang sức, xe ngựa hoa lệ,
Ngựa có dây cương tinh mỹ, gắn thêm mấy dải tua dua mầu đỏ.
Rượu trong chén vàng dần cạn,
Mỹ nhân đẹp như hoa mệt mỏi nơi bồng lai tiên cảnh.
Mối (biệt ly) hận xưa của những thiếu nữ tuổi hoa niên (mà tôi đã gặp),
Giấc mộng 10 năm, bấm đốt ngón tay, không cầm được kinh hãi (vì thời gian qua mau).
Dựa lan can hồi lâu,
(Nhìn) khói mới bay lên trong ngày buồn tẻ,
(Không khí) tịch mịch đến với thành hoang vu (thành Dương Châu).

Phỏng Dịch

1 Mãn Đình Phương - Những Ngày Vui Xưa

 

Hừng sáng mây quang,

Xuân tùy theo ý,

Mưa rào vừa tạnh thình lình.

Cổ đài lầu tạ,

Yến bay đạp hoa cành.

Du quả loay quay tự rụng,

Ngoài đu ấy, cầu nước ngang bình.

Gió xuân thổi,

Cửa son ánh liễu,

Nhẹ gẩy khúc đàn tranh.

 

Đa tình.

Nơi thích thú,

Xe sang bảo ngọc,

Cương quý tua xinh.

Chén rượu đang dần cạn,

Nàng túy Bồng Doanh.

Thiếu nữ hoa niên hận cũ,

Mười năm mộng, thời khắc qua nhanh.

Lan can đứng,

Sương thưa tẻ nhạt,

Tịch mịch xuống hoang Thành.

 

2 Những Ngày Vui Xưa


Mây tán trời hừng sáng,
Ánh xuân tùy ý người.
Mưa rào vừa mới tạnh,
Trên cổ tạ lâu đài.

Én bay đạp khóm hoa,
Rụng cánh hồng la đà.
Múa mỏi du tiền quả,
Tự mình rơi xuống xa.

Ngoài xích đu trong sân,
Nước xanh dòng suối dâng.
Đã chừng như mấp mé,
Ngang mặt cầu lâng lâng.

Trong gió xuân phơi phới,
Phất phơ dàn liễu thưa.
Cửa son trông thấp thoáng,
Nghe nhẹ tiếng đàn đưa.

Người đa tình vốn dĩ,
Khắp mọi chốn vui chơi.
Minh châu cài mái tóc,
Phỉ thúy che lọng trời.

Cương ngọc tua dua đỏ,
Chén vàng rượu đã vơi.
Người đẹp say tiên đảo,
Tuổi hoa niên hận đời.

Mười năm như giấc mộng,
Kinh hoảng đếm thời gian.
Dựa lan can tẻ nhạt,
Tịch mịch xuống thành hoang.

HHD 7-2019

0 comments:

Post a Comment