Tuesday, July 20, 2021

Vọng Tương Nhân - Hạ Chú

望湘人 - 賀鑄   Vọng Tương Nhân - Hạ Chú

春思 Xuân tứ

 

厭鶯聲到枕,             Yếm oanh thanh đáo chẩm,

花氣動簾,                 Hoa khí động liêm,

醉魂愁夢相         Túy hồn sầu mộng tương bán.

被惜餘薰,                 Bị tích dư huân,

帶驚剩                 Đái kinh thặng nhãn.

幾許傷春春         Kỷ hứa thương xuân xuân vãn.

淚竹痕鮮,                 Lệ trúc ngân tiên,

佩蘭香老,                 Bội lan hương lão,

湘天濃                 Tương thiên nùng noãn.

記小江、風月佳時,Ký tiểu giang, phong nguyệt giai thì,

屢約非煙遊         Lũ ước phi yên du bạn.

 

須信鸞弦易         Tu tín loan huyền dị đoạn.

奈雲和再鼓,             Nại vân hòa tái cổ,

曲終人                 Khúc chung nhân viễn.

認羅襪無蹤,             Nhận la miệt vô tung,

舊處弄波清         Cựu xứ lộng ba thanh thiển.

青翰棹艤,                 Thanh hàn trạo nghĩ,

白蘋洲                 Bạch tần châu bạn.

盡目臨皋飛         Tận mục lâm cao phi quán.

不解寄、一字相思,Bất giải ký, nhất tự tương tư,

幸有歸來雙         Hạnh hữu quy lai song yến.

 

Chú Thích

1- Vọng tương nhân 望湘人: tên từ bài của Hạ Chú, gồm 106 chữ, vần trắc. Cách luật:

 

T B B T T cú

B T T B cú

T B B T B T vận

T T B B cú

T B T T vận

T T B B B T vận

T T B B cú

T B B T cú

B B B T vận

T T B, B T B B cú

T T B B B T vận

 

B T B B T T vận

T B B T T cú

T B B T vận

T B T B B cú

T T T B B T vận

B T T T cú

T B B T vận

T T B B B T vận

T T T, T T B B cú

T T B B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Yếm 厭 = thảo yếm 討厭: chán ghét.

3- Oanh thanh 鶯聲: tiếng hót của chim oanh.

4- Hoa khí 花氣: hương thơm của hoa, mùi hoa.

5- Tương bán 相半: mỗi bên một nửa, tương đẳng.

6- Bị : chăn.

7- Dư huân 餘薰: mùi thơm còn sót lại.

8- Đái kinh 帶驚: kinh hãi vì dây thắt lưng đã lỏng ra, thân mình gầy đi.

9- Nhãn : lỗ ở trên dây lưng để cài nút. Thặng nhãn: dư ra nhiều lỗ.

10- Kỷ hứa 幾許: bấy nhiêu, nhiều.

11- Thương xuân 傷春: nhân mùa xuân đến mà khơi lên nỗi ưu thương buồn khổ.

12- Lệ trúc 淚竹: Tương truyền khi vua Thuấn mất, nước mắt của hai bà phi là Nga Hoàng   娥皇, và Nữ Anh 女英, rơi xuống bụi trúc thành vệt trên thân cây trúc, sinh ra loại trúc vằn vè gọi là “Ban trúc 斑竹” hay “Lệ trúc 淚竹”.

13- Ngân : vệt, ngấn lệ (của 2 bà phi). Ngân tiên 痕鮮: vệt nước mắt còn tươi nguyên.

14- Bội lan 佩蘭: hoa lan đeo trên người làm trang sức.

15- Tương thiên 湘天: vòm trời trên sông Tương.

16- Giai thì 佳時: thời gian đẹp đẽ.

17- Lũ ước 屢約: Nhiều lần hẹn ước.

18- Phi yên 非煙: Nàng Bộ Phi Yên 步非煙 là nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết “Phi Yên truyện 非煙傳” của Hoàng Phủ Mai 皇甫枚 đời Đường . Phi Yên có nhan sắc xinh đẹp lại giỏi đàn hát, làm thơ, là người thiếp của Võ Công Nghiệp 武公業, 1 vị quan nhỏ ở huyện Lâm Chuẩn 臨淮, tỉnh Hà Nam. Trong bài này chữ Phi Yên ám chỉ người tình xinh đẹp tài giỏi.

19- Tu tín 須信: nên biết.

20- Loan huyền 鸞弦: truyện xưa kể vua Hán Võ Đế 漢武帝 bị đứt dây cung. Có người thần tiên ở Tây Hải 西海dâng chất keo “Loan giao 鸞膠” để nối lại dây cung như cũ. Người đời sau dùng chữ “Tục giao 續膠” hay “Tục huyền 續弦” để chỉ người đàn ông góa lấy vợ lần nữa. Trong bài này chữ loan huyền ám chỉ chuyện ái tình.

21- Vân hòa 雲和: dây các loại đàn cầm, sắt, tỳ bà.

22- Cổ : gẩy, khua, vỗ.

23- La miệt (mạt) 羅襪: bí tất làm bằng lụa. Chữ la miệt ở đây ám chỉ người tình.

24- Thanh hàn 青翰: tức thanh hàn châu 青翰舟, loại thuyền gỗ có vẽ hình con chim sơn mầu xanh.

25- Trạo : mái chèo, đại chỉ thuyền. Nghĩ : thuyền cập bến.

26- Bạch tần 白蘋: loài cỏ, bèo mọc trên nước có hoa trắng. Bạch tần châu 白蘋洲: bãi đất ven sông hay nổi giữa sông có nhiều loại bèo hoa trắng sinh sản.

27- Hai câu “Thanh hàn trạo nghĩ, Bạch tần châu bạn 青翰棹艤,白蘋洲畔”: bản khác chép “Thanh hàn trạo, Nghĩ bạch tần châu bạn 青翰棹, 艤白蘋洲畔”, cùng một ý nghĩa.

28- Lâm cao 臨皋: vùng đất hướng về bờ nước như ao, hồ, sông, ngòi.

29- Quán : nhà lầu cao. Phi quán 飛觀: cung điện cao chót vót. Trong bài này chữ phi quán chỉ nhà lầu cao.

30- Hạnh : may, vừa tốt.

 

Dịch Nghĩa

Chán ghét tiếng chim hoàng oanh truyền đến bên gối,

Mùi hoa tươi xuyên qua rèm vào đến trong phòng,

(Làm) nửa hồn say nửa mộng buồn.

Cái chăn còn lưu giữ mùi hương

Kinh hãi thấy cái đai lưng của tôi đã rộng ra vài mắt.

Bao lần trải mùa xuân buồn thương thì lại đã đến cuối xuân.

Những vệt nước mắt của 2 bà Tương Phi trên cây trúc vẫn mới,

Hoa lan đeo làm trang sức đã nhạt mùi hương,

Bầu trời sông Tương nồng ấm.

Nhớ được rằng trên con sông nhỏ này trăng gió và thời tiết tốt đẹp.

Nhiều lần ước hẹn người tình cùng du ngoạn.

 

Nên biết rằng dây đàn dễ đứt.

Kham chịu tái gẩy đàn,

Một khúc vừa xong thì nàng liền đi xa.

Nhận biết nàng không có tung tích,

Những chỗ đi chơi xưa, chỉ thấy sóng nước trong và cạn.

(Tôi) đem thuyền vào bến,

Đậu ở bãi sông có nhiều bèo hoa trắng “bạch tần”.

Lên lầu cao ở bến sông hết sức nhìn xa.

Không (thấy nàng gửi 1 phong thư) giải đáp, 1 chữ nói nhớ nhau,

Vừa tốt cho tôi còn có đôi chim yến bay về.

 

Phỏng Dịch


1 Vọng Tương Nhân - Xuân Tứ

 

Chán oanh vang đến gối,

Hoa khí động rèm,

Nửa hồn say mộng sầu oán.

Ấm vướng hơi chăn,

Sợ lưng rộng tán.

Mấy buổi xuân tàn buồn nản.

Lệ trúc còn tươi,

Nhạt hương lan héo,

Trời Tương nồng ấm.

Nhớ cảnh sông, trăng gió hài hòa,

Đã ước người tình du ngoạn.

 

Nên biết dây đàn dễ đoạn.

Cố đem đàn tấu nhạc,

Khúc tàn người tán.

Biết tung tích nàng đâu,

Chốn cũ sóng xanh trong cạn.

Thuyền lan đậu bến,

Bãi sông bèo trắng.

Hết sức nhìn xa lầu quán.

Chẳng biết gửi, một chữ tương tư,

Hạnh có bay về đôi yến.

 

2 Xuân Tứ

 

Bên gối chán chưa rộn tiếng oanh,

Hoa thơm thoang thoảng xuyên qua mành.

Hồn say còn nửa sầu trong mộng,

Chăn ám hương xưa đượm bóng hình.

 

Dải đai thừa mắt mấy mùa xuân,

Lệ trúc còn tươi xuân mất dần.

Cành lan ngày ấy nay già lão,

Nồng ấm trời Tương giữa bụi trần.

 

Nhớ dòng sông nhỏ gió trăng thanh,

Cảnh đẹp người xưa như quẩn quanh.

Đã từng ước hẹn người yêu dấu,

Dạo bước bao lần với bạn tình.

 

Nên biết dây đàn dễ đứt thôi,

Cố ôm đàn cũ gẩy thương đời.

Khúc hết người xa trời vắng bóng,

Gót sen mất dấu buồn đơn côi.

 

Sóng nước cạn trong những chốn xưa,

Neo thuyền đậu bến bạch bình mơ.

Lên cao trông ngóng một lời nhớ,

Đôi yến bay về trám cảnh thơ.

 

HHD 07-2021


Bản Dịch của Lộc Bắc

NGÓNG NGƯỜI SÔNG TƯƠNG

 

1-    

Tiếng nhãi oanh bên gối

Hương hoa lay màn

Nửa mộng, nửa say buồn nát

Chăn giữ hương thừa

Đai lỏng vài đốt

Bao lần thương xuân, xuân dứt

Trúc lệ còn tươi

Lan đeo hương nhạt

Trời Tương ấm áp

Nhớ sông con, tiết đẹp gió trăng

Cùng người bao hẹn ước!

 

Nên biết dây đàn dễ đứt

Cố đem đàn gẩy lại

Khúc xong nàng biệt

Nhận biết chẳng tăm hơi

Chốn xưa sóng xanh nước ít

Đem thuyền vào bến

Bạch tần bãi cát

Lên lầu cao nhìn mút mắt

Không gởi thư, một chữ nhớ nhau

Đôi én quay về, vừa tốt!

 

 

2-    Xuân nhớ

 

Hương lay rèm, tiếng oanh gối ngủ

Nửa mộng, say chăn giữ hương xưa

Giải lưng kinh hãi đốt thừa

Xuân buồn mới trải cũng vừa cuối xuân

 

Lệ trúc ướt, lan trâm hương nhạt

Trên sông Tương ấm áp một trời

Nhớ sông trăng gió tuyệt vời

Bao lần ước hẹn cùng người viễn phương

 

Dẫu biết rằng dây thường dễ đứt

Cố đàn xong trước lúc biệt ly

Chẳng tung tích, cõi nàng đi

Chốn xưa nước cạn sóng tùy lăn tăn

 

Thuyền vào bến, bạch tần bãi cát

Lên lầu cao, mút mắt nhìn lâu

Không thơ, một chữ nhớ nhau

Cũng may đôi én về lầu, tốt thay!

 

Lộc Bắc

Mars24

 

 

 











 


0 comments:

Post a Comment