曲游春-周密 Khúc Du Xuân – Chu Mật
禁煙湖上薄遊,施中山賦詞甚佳,余因次其韻。蓋平時遊舫,至午後則盡入裏湖,抵暮始出斷橋,小駐而歸,非習於遊者不知也。故中山亟擊節余「閒卻半湖春色」之句,謂能道人之所未云。
Cấm yên hồ thượng bạc du, Thi
Trung Sơn phú từ thậm giai, dư nhân thứ kỳ vận. Cái bình thời du phảng, chí ngọ
hậu tắc tận nhập Lý hồ, để mộ thủy xuất Đoạn kiều, tiểu trú nhi quy, phi tập ư
du giả bất tri dã. Cố Trung Sơn cức kích tiết dư “nhàn khước bán hồ xuân sắc”
chi cú, vị năng đạo nhân chi sở vị vân.
禁苑東風外, Cấm uyển đông phong ngoại,
颺暖絲晴絮, Dương noãn ty tình nhứ,
春思如織。 Xuân
tứ như chức.
燕約鶯期, Yến ước oanh kỳ,
惱芳情偏在, Não phương tình thiên tại,
翠深紅隙。 Thúy
thâm hồng khích.
漠漠香塵隔, Mạc
mạc hương trần cách,
沸十里、亂絲叢笛。Phí thập lý,
loạn ty tùng địch.
看畫船、盡入西泠,Khán họa
thuyền, tận nhập Tây Linh,
閒卻半湖春色。 Nhàn
khước bán hồ xuân sắc.
柳陌, Liễu mạch,
新煙凝碧。 Tân yên ngưng bích.
映簾底宮眉, Ánh
liêm để cung mi,
隄上游勒。 Đê thượng du lặc.
輕暝籠寒, Khinh
mính lung hàn,
怕梨雲夢冷, Phạ
lê vân mộng lãnh,
杏香愁冪。 Hạnh hương sầu mịch.
歌管酬寒食。 Ca quản thù hàn thực.
奈蝶怨、良宵岑寂。Nại điệp oán,
lương tiêu sầm tịch.
正滿湖、碎月搖花,Chính mãn hồ, toái nguyệt dao hoa,
怎生去得? Chẩm sinh khứ đắc?
Chú Thích
1- Khúc du xuân 曲遊春: tên từ bài, sáng tác từ đời Tống, có 102 chữ, trắc vận.
Cách luật:
X T B B T cú
T X B B T cú
B T B T vận
T T B B cú
T X B X T cú
X B B T vận
T T B B T vận
X T T, T B B T vận
T T B, T T B B cú
B X T X B T vận
T T vận
B B X T vận
T X T B B cú
B T B T vận
X T B B cú
X B B T T cú
X B B T vận
X T B B T vận
T T T, X B X T vận
T T B, T T B B cú
[[X T X T B B cú]]
X B T T vận
B: bình thanh; T: trắc thanh;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Cấm yên 禁煙 = cấm yên hỏa 禁煙火: không nấu
nướng. Vào tiết hàn thưc 寒食 (ăn lạnh) thì mọi
người ăn thức ăn nguội đã nấu sẵn từ trước, vì vậy nói cấm đun nấu.
3- Bạc du 薄遊 = du遊: du ngoạn, chữ bạc 薄 dùng làm chuyển
ngữ, vô ý nghĩa.
4- Thi Trung Sơn 施中山: Thi Nhạc 施嶽,tự là Trung Sơn中山, giỏi âm luật, bạn của tác giả.
5- Phú từ 賦詞: làm bài từ.
6- Thứ vận 次韻: họa vận
7- Cái 蓋: Siêu việt, trội hơn, át hẳn.
8- Du phảng 遊舫 = du
thuyền 遊船。
9- Lý Hồ 裏湖: xung quanh Tây Hồ ở Hàng Châu 杭州 có 5 bộ phận nhỏ là Lý Tây hồ 裏西湖,
Tây Lý hồ 西裏湖, Tiểu Nam hồ 小南湖,
Nhạc hồ 岳湖 và Bắc
Lý hồ 北裏湖. Chữ Lý hồ ám chỉ “Lý Tây hồ” hoặc là “Tây Lý hồ”.
10 - Để mộ 抵暮: đến chiều.
11- Đoạn kiều 斷橋: tên cây cầu ở Hàng Châu.
12- Kích tiết 擊節: tán thưởng.
13- Cấm uyển 禁苑: vườn thượng uyển, ám chỉ cung đình.
14- Dương 颺: gió thổi bay cao.
15- Noãn ty tình nhứ 暖絲晴絮 = ôn
noãn hựu tình lãng đích ty nhứ 温暖又晴朗的絲絮: nhánh liễu
ấm áp và khô ráo, hoặc là cành tơ liễu trong ngày ấm áp và tạnh ráo.
16- Xuân tứ 春思: tình cảm đối với ngày xuân.
17- Yến ước oanh kỳ 燕約鶯期: nam nữ yêu đương hẹn hò với nhau.
18- Phương tình 芳情: có thể hiểu là “Mỹ hảo đích
tình hoài 美好的情懷: tình cảm mỹ hảo”, hoặc là “Nùng tình mật ý 濃情蜜意: tình ý nồng thắm”.
19- Thiên 偏 = đặc
biệt 特别, rất.
20- Thúy thâm hồng khích翠深紅隙: sâu trong cành lá và qua khe hở những bông hoa, chỉ nơi
hẹn hò của các tình nhân.
21- Não
phương tình thiên tại, thúy thâm hồng khích 惱芳情偏在,翠深紅隙 = não
phương tình, thiên tại thúy thâm hồng kích 惱芳情, 偏在翠深紅隙: nồng tình mật ý đều tại sâu trong bụi cây hoa lá.
22- Mạc mạc 漠漠: phân bố dầy đặc. Cách 隔: che lấp.
23- Phí 沸: sôi sục. Ý nói tiếng người huyên náo sôi sục.
24- Loạn ty tùng địch 亂絲叢笛: loạn dây đàn và rừng sáo, tiêu. Đàn sáo vang lừng.
25- Họa thuyền 畫船: thuyền sang trọng.
26- Tây Linh 西泠 = Tây Linh kiều 西泠橋: tên một cây cầu ở Tây Hồ 西湖, Hàng Châu,
TH.
27- Nhàn khước 閒卻 = không
nhàn 空閒, nhàn hạ 閒暇, nhàn. Nhàn khước bán hồ
xuân sắc 閒卻半湖春色 =
bán hồ xuân sắc chi nhàn khước 半湖春色之閒卻: cái nhàn hạ
của nửa hồ xuân sắc.
28- Liễu mạch 柳陌: con đường trồng cây liễu.
29- Liêm để cung mi 簾底宮眉: người cung nữ trong rèm. Tác giả chỉ những người đẹp
ở trong lầu khi ấy.
30- Du lặc 遊勒: người cưỡi ngựa đi du ngoạn.
31- Khinh mính 輕暝: hơi tối, chạng vạng.
32- Lê vân mộng 梨雲夢: trong mộng thấy hoa lê nhiều như mây. Người Trương
Bang Cơ 張邦基 tự là Tử Hiền子賢, đời Tống 宋, soạn ra bộ sách “Hắc Trang Mạn Lục 墨莊漫錄” gồm 10 quyển, quyển thứ sáu chép bài ca “Mộng Khán Lê
Hoa Vân Ca 夢看梨花雲歌” của Vương Kiến 王建 đời Đường 唐, trong đó có câu:
薄薄落落霧不分,bạc bạc lạc lạc vụ bất phân,
夢中喚作梨花雲。mộng trung hoán tác lê hoa vân.
Mỏng mỏng tích lũy như
sương trông không rõ,
Trong mộng gọi là đám mây
hoa lê.
33- Mịch 冪: che trùm, bao trùm, che đậy.
34- Ca quản 歌管: ca hát và hòa nhạc.
35- Thù 酬: báo đáp, thực hiện ý nguyện.
36- Hàn thực 寒食: tiết ăn cơm nguội, không nấu nướng.
37- Nại 奈 = vô
nại 無奈: không
cách nào.
38- Sầm tịch 岑寂: cô đơn tịch mịch.
39- Chính 正: chính lúc này.
40- Toái nguyệt 碎月: ảnh của mặt trăng như tan vỡ trên sóng nước.
41- Chính mãn hồ, toái nguyệt
dao hoa: chính lúc này toàn hồ, (sóng làm cho) bóng trăng tan vỡ và bóng hoa
lay động. Bản khác chép “Chính nhiệm toái nguyệt dao hoa 正恁醉月搖花: chính lúc mặc cho trăng vỡ hoa lay”.
42- Chẩm sinh 怎生 = chẩm dạng 怎樣: sao? thế
nào?
Dịch Nghĩa
Ghi chú của tác giả: Đi du
ngoạn trên hồ trong tiết hàn thực. Thi Trung Sơn làm một bài từ thật hay. Vậy tôi
họa một bài. Du thuyền lúc bình thời, đến xế trưa thì tiến vào Lý Hồ. Lúc hoàng
hôn mới thong thả đi ra Đoạn Kiều, dừng lại một tí rồi mọi người tự đi về. Những
người không quen đi chơi hồ thì không hiểu tình hình này. Vì vậy Thi Trung Sơn
nhiều lần nhiệt liệt tán thưởng câu từ của tôi “Nhàn khước bán hồ xuân sắc”, rằng
câu này có thể nói lên được những cảnh sắc mà ông ta chưa nói đến.
Gió xuân ngoài cung đình,
Gió thổi nhánh tơ liễu trong
ngày ấm tạnh,
Ý xuân như dệt.
Thời kỳ hẹn ước (của tình nhân),
Ý thắm tình nồng,
Đều tại nơi khóm cây hoa lá.
Dầy đặc bụi thơm che bầu trời,
Mười dặm sôi sục, tiếng đàn sáo
loạn xạ.
Nhìn đám thuyền hoa đều vào hết
vùng Tây Lãnh kiều,
Nửa hồ xuân sắc nhàn hạ.
Con đường trồng liễu.
Khói mới bay lên ngưng đọng
thành mầu xanh biếc.
Ánh chiếu những người đẹp ở
trong rèm,
Và những người khách cưỡi ngựa
ở trên đê.
Ánh sáng mờ nhạt (như) bao trùm
vẻ lạnh,
Chỉ sợ như mộng cảnh hoa lê dầy
đặc như mây lạnh lẽo,
Mùi hoa hạnh (thoảng qua tăng
thêm) vẻ buồn tịch mịch.
Tiếng đàn hát trong ngày lễ hàn
thực.
Cánh bướm cũng phải mai oán đêm
lành tịch mịch (ngày lễ đã hết).
Toàn khu hồ chính lúc này, sóng
lăn tăn làm ánh trăng tan vỡ và bóng hoa lay động.
(Cảnh đẹp như thế này) làm
sao tôi bỏ đi được?
Phỏng Dịch
1 Khúc Du Xuân - Cảnh Hồ Tây
Thượng uyển xuân đưa gió,
Ấm tạnh cành tơ liễu,
Xuân tứ như dệt.
Ước hẹn thời kỳ,
Thắm nồng bao tình ý,
Khóm cây hoa vết.
Ngột ngạt hương thơm cách.
Mười dặm sủi, sáo hò đàn hét.
Thấy họa thuyền, tiến đến Tây
Linh,
Nhàn hạ nửa hồ xuân sắc.
Liễu mạch.
Khói lên mầu bích
Ánh cung nữ sau rèm,
Trên đê ngựa bạch.
Mờ tối hàn vây,
Sợ hoa lê lạnh lẽo,
Hạnh hương sầu kết.
Ca hát tiết hàn thực.
Ngại bướm oán, đêm thanh cô tịch.
Chính khắp hồ, nguyệt vỡ hoa
lay,
Làm sao bỏ được?
2 Cảnh Hồ Tây
Gió xuân vi vút ngoài cung,
Nhánh khô cành ấm sánh cùng
bay cao.
Ý xuân như dệt thanh tao,
Yến oanh hẹn ước xôn xao ý tình.
Cành hoa khóm lá đẹp xinh,
Bụi thơm bay khắp trời xanh mịt
mù.
Sục sôi mười dặm lu bù,
Vang lừng ca hát, vi vu quản
huyền.
Tây Linh vào hết họa thuyền
Nửa hồ xuân sắc triền miên
thanh nhàn.
Hàng cây liễu rủ bên đàng,
Khói lên xanh biếc, ánh màn mỹ
nhân.
Trên đê cưỡi ngựa du xuân,
Lạnh lùng chạng vạng xa gần bủa
vây.
Sợ hoa lê nhiễm lạnh đầy,
Trong mơ lại tưởng như mây trắng
ngần.
Hạnh hương sầu kết mấy phần,
Nhân mùa hàn thực gẩy đàn thổi
tiêu.
Đêm về bướm oán cô liêu,
Giữa hồ nguyệt vỡ sóng đều
hoa lay.
Đi không đành, cảnh đẹp thay!
HHD 11- 2024
0 comments:
Post a Comment