Tuesday, October 19, 2021

Mãn Đình Phương - Lý Thanh Chiếu

滿庭芳 - 李清照  Mãn Đình Phương – Lý Thanh Chiếu

 

小閣藏春,                 Tiểu các tàng xuân,

閒窗鎖晝,                 Nhàn song tỏa trú,

畫堂無限深         Họa đường vô hạn thâm u.

篆香燒盡,                 Triện hương thiêu tận,

日影下簾             Nhật ảnh hạ liêm câu.

手種江梅更好,         Thủ chủng giang mai cánh hảo,

又何必臨水登Hựu hà tất, lâm thủy đăng lâu.

無人到,                      Vô nhân đáo,

寂寥渾似、何遜在揚Tịch liêu hồn tự, Hà tốn tại Dương châu.

 

從來,                          Tùng lai,

知韻勝                      Tri vận thắng,

難堪雨藉,                 Nan kham vũ tạ,

不耐風                 Bất nại phong nhu.

更誰家橫笛,             Cánh thùy gia hoành địch,

吹動濃                 Xuy động nùng sầu.

莫恨香消雪減,         Mạc hận hương tiêu tuyết giảm,

須信道、掃跡情Tu tín đạo, tảo tích tình lưu.

難言處,                      Nan ngôn xứ,

良宵淡月,                 Lương tiêu đạm nguyệt,

疏影尚風             Sơ ảnh thượng phong lưu.

 

Chú Thích

1- Mãn đình phương 滿庭芳: tên từ bài, tên khác là “Tỏa dương đài 鎖陽台”, “Mãn đình sương 滿庭霜”. V.v. Bài này có 95 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn có 4 bình bận. Cách luật của Lý Thanh Chiếu:

 

T T B B cú

B B T T cú

T B B T B B vận

T B B T cú

T T T B B vận

T T B B T T cú

T B T, B T B B vận

B B T cú

T B B T, B T T B B vận

 

B B cú

B T T cú

B B T T cú

T T B B vận

T B B B T cú

B T B B vận

T T B B T T cú

B T T, T T B B vận

B B T cú

B B T T cú

B T T B B vận

 

2- Nhàn song 閒窗: văn chương thuờng dùng chữ nhàn ghép với danh từ để chỉ tình trạng bình thường của sự vật, không có gì đặc biệt xẩy ra. Thí dụ như “Nhàn giai: bậc thềm bình thường”, “Nhàn song: cửa sổ bình thường”, v.v.

3- Triện hương 篆香: một loại hương vòng.

4- Liêm câu 簾鈎: móc để treo màn, rèm.

5- Thủ chủng 手種: tự tay trồng.

6- Giang mai 江梅: hoa mai mọc ở bờ sông. Thực ra trong bài này, chữ giang mai chỉ loại mai quý như ngày xưa Hà Tốn ở Dương Châu làm bài thơ “Vịnh tảo mai 詠早梅”.

7- Cánh : càng, bản khác chép “Tiệm : dần”.

8- Lâm thủy đăng lâu 臨水登樓: thành ngữ này xuất xứ từ bài thơ “Tống nhân quá Vệ châu 送人過衛州” của tác giả Dương Cự Nguyên 楊巨源 thời Trung Đường:

 

論舊舉杯先下淚,Luận cựu cử bôi tiên hạ lệ,

傷離臨水更登樓。Thương ly lâm thủy cánh đăng lâu.

Nói chuyện cũ, nâng ly rượu tiễn biệt, chưa uống mà lệ đã rơi,

Ly biệt buồn thương bên bờ nước (sông Vệ Hà), lại lên lầu nhìn bóng người đi”.

 

Từ đó có thành ngữ “Lâm thủy đăng lâu” nói lên sự tống biệt.

Cũng có người nói thành ngữ này xuất xứ từ bài “Đăng lâu phú 登樓賦” của Vương Xán 王粲 thời Đông Hán 東漢:

 

登茲樓以四望兮,Đăng tư lâu dĩ tứ vọng hề, Lên lầu ấy để nhìn bốn phía chừ,

聊暇日以銷憂。Liêu hà nhật dĩ tiêu ưu. Tạm hãy tại ngày nhàn hạ để tiêu sầu.

 

9- Hồn tự : hoàn toàn giống. Bản khác chép “Kháp tự 恰似: vừa như”.   

10- Hà Tốn 何遜: vị quan nhỏ ở Dương Châu 揚州 thời nhà Lương 梁 Nam Triều 南朝, lúc đó quan phủ trồng 1 cây mai rất đẹp, thường thường ra đó xem hoa và ngâm thơ. Hà tốn tại Dương Châu 何遜在揚州: lấy chữ từ bài thơ “Hòa Bùi Địch đăng Thục châu Đông đình tống khách phùng tảo mai tương ức kiến ký 和裴迪登蜀州東亭送客逢早梅相憶見寄” của Đỗ Phủ 杜甫:

 

東閣官梅動詩興,Đông các quan mai động thi hứng,

還如何遜在揚州。Hoàn như Hà Tốn tại Dương Châu.

“Ở lầu Đông các thấy cây mai của quan phủ nên động thi hứng,

“Giống như Hà Tốn ở Dương Châu "

 

11- Vận thắng 韻勝: đẹp nhã nhặn.

12- Nan kham vũ tạ 難堪雨藉: không chịu đựng được mưa vùi dập.

13- Bất nại phong nhu不耐風揉: không chịu đựng được gió táp.

14- Hoành địch 橫笛: phiếm chỉ khúc nhạc tấu bằng cây sáo cầm ngang trước mặt, ý nói thổi sáo bài sáo “Mai hoa lạc”.

15- Hương tiêu 香消: mùi thơm biến mất.

16- Tuyết giảm 雪減: bản khác chép “Ngọc giảm玉減”.

17- Tảo tích 掃跡: quét sạch không để lại ngấn tích. Tảo tích tình lưu: ngấn tích bị quét sạch nhưng cái tình còn lưu lại.

18- Lương tiêu 良宵: ban đêm có cảnh sắc đẹp hoặc là một đêm dài an lành hoặc đơn giản là đêm khuya. Lương tiêu cũng ám chỉ ngày rằm tháng giêng.

19- Sơ ảnh 疏影 = vật cảnh hy sơ 物影稀疏: cảnh vật thưa thớt. Sơ ảnh cũng có thể hiểu đơn giản là “Hình bóng”.

20- Phong lưu 風流: phong độ, nghi thái.

 

Dịch Nghĩa

Căn gác nhỏ đượm không khí của mùa xuân,

Cửa sổ đóng kín,

Trong căn nhà hoa lệ vô hạn thâm sâu u tĩnh.

Cây hương vòng đã cháy hết,

Ánh nắng chiếu lên móc câu của tấm màn cửa.

Tự tay trồng được cây mai rất đẹp,

Việc gì phải xuống bến sông và lên lầu trông ngóng.

Không có ai đến (với tôi),

Hoàn cảnh tịch liêu giống như năm xưa Hà Tốn tại Dương Châu.

 

Xưa nay,

Vẫn biết hoa mai đẹp thanh cao nhã nhặn,

Nhưng không chịu đựng được mưa vùi dập,

Cũng không chịu đựng được gió thổi sương táp.

Lại có tiếng sáo nhà ai thổi (bài mai hoa lạc),

Nghe buồn não nùng.

Đừng hận vì hương thơm tan mất, cánh hoa tàn rụng như tuyết,

Nên biết rằng hoa bị quét sạch tông tích nhưng tình ý giữ lâu mãi.

Chỗ ngôn ngữ khó biểu đạt là,

Trong những đêm lành mỹ hảo, ánh trăng đạm nhạt nhạt,

Hình ảnh hoa mai vẫn lộ vẻ phong lưu thanh nhã.

 

Phỏng Dịch


1 Mãn Đình Phương - Mai Hoa Tàn

 

Gác nhỏ ngày xuân,

Song nhàn khóa kín,

Nhà hoa vô hạn thâm sâu.

Hương vòng tàn hết,

Ánh nắng chiếu rèm châu.

Trồng được cây mai quá đẹp,

Việc gì phải, trông ngóng lên lầu.

Không ai đến,

Tịch liêu tương tự, Hà Tốn tại Dương Châu.

 

Xưa nay,

Thanh nhã đẹp,

Không kham gió đập,

Chẳng chịu mưa nhầu,

Sáo ngang nhà ai thổi,

Động mối u sầu.

Đừng hận hương tan ngọc nát,

Nên biết đấy, cảnh mất tình lâu.

Còn gì nói,

Đêm thanh nguyệt đạm,

Hình bóng vẫn phong lưu.       


2 Hoa Mai Tàn

 

Gác nhỏ ươm xuân cửa khóa kín,

Nhà hoa vô hạn bước thâm sâu.

Tàn hết hương vòng ngày sắp cạn,

Chiều hôm nắng chiếu trên rèm châu.    

 

Cây mai ngày ấy trồng tươi quá,

Xuống bến lên lầu có nghĩa gì.

Phòng khuê tịch mịch không người đến,

Hà Tốn Dương Châu có khác chi.

 

Xưa nay thanh nhã không kham gió,

Chẳng chịu mưa nhầu trên cõi đời.

Tiếng sáo nhà ai chợt ảm đạm,

Buồn trong giây phút kiếp tàn côi.

 

Đừng hận mãi hương tan ngọc nát,

Cảnh xưa tiêu thất tình bền lâu.

Còn nói chi, trăng thanh đạm nhạt,

Hoa mai cảnh sắc vẫn phong lưu.  


HHD 10-2021

 

                                        

0 comments:

Post a Comment