Wednesday, November 22, 2023

Cao Dương Đài - Ngô Văn Anh

Ngô Văn Anh 吳文英 tự là Quân Đặc 君特, hiệu là Mộng Song 夢窗,sau đổi thành Giác Ông 覺翁. Ông quê quán ở Chiết Giang 浙江, nguyên là họ Ông , sau làm con nuôi họ Ngô  nên đổi họ. Ông cả đời không thi đậu, thường ngao du các tỉnh Tô Châu 蘇州, Hàng Châu 杭州 và Việt Châu 越州, đề thơ vịnh cảnh. Từ của ông có phong điệu hoa mỹ và mật thiết. Ông còn để lại tập Mộng Song từ 夢窗詞 gồm hơn 340 bài được người đời sau yêu thích.

 

高陽臺 - 吴文英  Cao Dương Đài – Ngô Văn Anh

落梅 Lạc mai

 

宮粉                 Cung phấn điêu ngân,

仙雲墮影,                 Tiên vân đọa ảnh,

無人野水荒         Vô nhân dã thủy hoang loan.

古石埋香,                 Cổ thạch mai hương,

金沙鎖骨連         Kim sa tỏa cốt liên hoàn.

南樓不恨吹橫笛,     Nam lâu bất hận xuy hoành địch,

恨曉風、千里關Hận hiểu phong, thiên lý quan san.

半飄零、庭上黃昏,Bán phiêu linh, đình thượng hoàng hôn,

月冷闌                 Nguyệt lãnh lan can.

 

壽陽空理愁         Thọ Dương không lý sầu loan.

問誰調玉髓,             Vấn thùy điều ngọc tủy,

暗補香                 Ám bổ hương ban?

細雨歸鴻,                 Tế vũ quy hồng,

孤山無限春         Cô sơn vô hạn xuân hàn.

離魂難倩招清些,     Ly hồn nan thính chiêu thanh ta,

夢縞衣解佩溪Mộng cảo y, giải bội khê biên.

最愁人、啼鳥晴明,Tối sầu nhân, đề điểu tình minh,

葉底靑                 Diệp để thanh viên.

 

Chú Thích

1- Cao dương đài 高陽臺:  tên từ bài, tên khác là “Khánh xuân trạch 慶春澤”, gồm 100 chữ, vần bằng. Cách luật của Ngô văn Anh có một chút thay đổi ở câu thứ nhất đoạn 2 so với cách luật của Trương viêm 張炎:

 

X T B B cú

B B T T cú

X B X T B B vận

X T B B cú

X B X T B B vận

X B X T B B T cú

T X B, X T B B vận

T B B, X T B B cú

X T B B vận

 

T B B T B B vận

T B B X T cú

X T B B vận

X T B B cú

X B X T B B vận

X B X T B B T cú

T X B, X T B B vận

T B B, X T B B cú

X T B B vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Cung phấn  = cung trung phấn đại 宮中粉黛: phụ nữ ở trong cung hay cung nhân, mượn để chỉ hoa mai.

3- Tiên vân 仙雲: người tiên cưỡi mây. Chữ này dùng để tả cái dáng hoa mai rơi rụng bay trong gió như người tiên cưỡi mây bay đi.

4- Dã thủy 野水: nước ngoài đồng ruộng, đất hoang.

5- Hoang loan 荒灣: chỗ dòng nước lõm vào bờ đất nơi vắng vẻ.

6- Mai hương 埋香= Táng ngọc mai hương 葬玉埋香:  táng ngọc chôn hương, ý nói người phụ nữ qua đời. Điển tích từ thời nước Tiền Thục 前蜀, quan Tiết độ sứ đất Tần Châu 秦州 là Vương Thừa Kiểm 王承檢, trong khi xây thành thì đào được 1 miếng đá ghi hàng chữ tưởng niệm người phụ nữ là “Thâm thâm táng ngọc, uất uất mai hương 深深葬玉,鬱鬱埋香: táng sâu viên ngọc, buồn thương chôn hương”. Trong bài này chữ “Mai hương” ám chỉ hoa mai tàn rụng.

7- Kim sa 金沙: Cát vàng, cát lẫn vàng.

8- Tỏa : cái vòng, cái khoen, thí dụ như liên tỏa 連鎖: cái dây chuyền đeo vào cổ làm vật trang sức. Tỏa cốt : nguyên nghĩa là tỏa tử cốt 鎖子骨, miếng xương ở giữa ngực. Chữ này cũng có nghĩa là xương khoen. Tỏa cốt liên hoàn 鎖骨連環: các khoen xương móc nối với nhau thành vòng chuỗi.  Sách “Tục Huyền Quái Lục 續玄怪錄” xuất bản vào khoảng thế kỷ thứ 8 chép rằng: xưa ở Diên Châu 延州có người nữ xinh đẹp, tuổi chừng 24, 25, thường đi một mình trong thành thị và đáp ứng mọi thanh niên đến tán tỉnh chăn gối, không hề phản đối. Được ít năm thì cô ta qua đời. Cư dân an táng cô ta bên vệ đường. Vào đời vua Đường Đại Tông Lý Dự 唐代宗李豫, niên hiệu Đại Lịch 大歷, có vị sư từ tây vực đến thắp hương kính lễ nhiều ngày. Cư dân hỏi nguyên do thì vị này cho biết đây là vị thánh từ bi tên là Tỏa Cốt Bồ Tát 鎖骨菩薩. Nhiều người không tin bèn khai quật ngôi mộ quả nhiên thấy xương cốt đều móc nối với nhau như hình khoen. Cư dân bèn dựng tháp thờ phụng. Có thuyết nói rằng vị Bồ Tát này chuyên độ những trai tráng dâm dục để bớt tính trăng hoa. Trong bài này câu “Kim sa tỏa cốt liên hoàn 金沙鎖骨連環” có ý nói hoa mai tuy tàn rụng trên bãi cát vàng nhưng tinh hồn vẫn tồn tại.

 

9- Nam lâu 南樓: tại mặt phía nam của căn nhà lầu.

10- Xuy hoành địch 吹横笛: thổi sáo ngang, có ý nói đến bài nhạc sáo tên là “Mai hoa lạc 梅花落: hoa mai rụng”.

11- Đình thượng hoàng hôn 庭上黄昏: mượn ý câu thơ của Lâm Bô 林逋 trong bài Sơn viên tiểu mai 山園小梅:  

 

疏影横斜水清淺,Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển,

暗香浮動月黄昏. Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn.

Nước nông cạn trong vắt soi ảnh hoa mai thư thớt ngang dọc xéo,

Mùi u hương sống động dưới ánh trăng hoàng hôn.

 

12- Lan can: 闌干 = lan can 欄杆: cái lan can trước nhà hay quanh sân hoặc có thể hiểu là “hoành tà 横斜” như câu thơ trên của Lâm Bô.

13- Thọ Dương 壽陽 = Thọ Dương công chúa 壽陽公主: Truyển kể vào thời Nam Triều, con gái của vua Tống Võ Đế Lưu Dụ là Thọ Dương công chúa đang vui chơi cùng cung nữ ở Hàm Chương Điện thì cảm thấy mệt mỏi bèn nằm nghỉ trên thềm. Bỗng nhiên một bông hoa mai rơi trên trán của công chúa tạo nên một vết ngấn mà ba ngày sau mới rửa sạch. Từ đó có tập quán vẽ bông hoa mai trên trán để trang điểm gọi là “Mai hoa trang 梅花妝”.

14- Loan =loan kính 鸞鏡: cái gương có khắc, vẽ hình chim loan. Thọ Dương không lý sầu loan 壽陽空理愁鸞: Thọ Dương công chúa soi gương mà phát buồn rầu.     

15- Điều 調 = điều quân 調: thoa đều.    

16- Ngọc tủy 玉髓 = Thát tủy tạp ngọc 獺髓雜玉: tủy của con rái cá trộn lẫn với ngọc. Sách “Thập Di Ký 拾遺記” chép vào thời Tam Quốc 三國, hoàng tử nước Ngô là Tôn Hòa 孫和 khi uống rượu say rồi nổi hứng, dưới ánh trăng múa cây ngọc “Thủy tinh như ý 水晶如意”, vô ý đánh trúng vào mặt vợ sủng ái là bà Đặng phu nhân 鄧夫人 khiến máu chẩy ướt cả áo. Tôn Hòa vội triệu thái y đến chữa thương. Thái y lấy tủy của con rái cá quý hiếm trộn với ngọc tán bột, hổ phách làm thuốc chữa thương. Vết thương lành không kết thẹo. Tuy nhiên mầu hổ phách đã làm trên má phu nhân như có lúm đồng tiền càng đẹp thêm. Từ đó trong dân gian có tập tục phụ nữ vẽ má lúm đồng tiền để trang điểm.

 

17- Ban : vết sẹo, vết hằn.

18- Vấn thùy điều ngọc tủy 問誰調玉髓: hỏi xem có ai chế thuốc ngọc tủy để chữa vết hằn trên trán công chúa Thọ Dương hoặc làm tăng thêm vẻ đẹp cho công chúa.

19- Quy hồng 歸鴻 = quy nhạn 歸雁: nhạn về, ý nói lòng nhớ quê, muốn về quê. Chim nhạn cũng đại biểu cho thư tín hoặc người đưa thư.  

20- Cô sơn 孤山: núi Cô sơn ở cạnh Tây Hồ, Hàng Châu. Trong thời Bắc Tống, Từ gia Lâm Bô đến ẩn cư ở đây, ông trồng rất nhiều cây mai.Về sau Cô sơn vẫn nổi tiếng vì mai hoa.

21- Ly hồn nan thính (thiến, sai) chiêu thanh ta 離魂難倩招清些: Chữ “Ta” ở cuối cho thấy câu này làm theo thể văn “Sở từ”, ý nói linh hồn thoát khỏi thân thể thì khó chiêu hồi về thân thể cũ.

22- Thính (sai, thiến) : nhờ làm, mời.

23- Cảo y 縞衣: áo lụa trắng.  

24- Giải bội 解佩: sách “Liệt tiên truyện 列仙傳” kể rằng vào thời nhà Chu có người Trịnh Giao Phủ 鄭交甫 đang đi ở bờ sông Hán giang thì gặp 2 thiếu nữ xinh đẹp phục sức hoa lệ, đeo hai viên ngọc minh châu to bằng quả trứng gà. Phủ đòi xin 2 viên ngọc. Hai thiếu nữ cởi ngọc đang đeo đưa cho Phủ. Phủ đeo vào người và rời chân đi. Phủ chỉ đi được mươi bước thì 2 viên minh châu đã biến mất cùng lúc đó 2 thiếu nữ cũng biến mất. Trịnh Giao Phủ ngộ ra rằng 2 thiếu nữ mà mình đã mạo phạm, là người tiên, không phải người phàm.

25- Thanh viên  = thanh viên 清圓: chỉ âm thanh trong sáng. Cũng có thuyết cho rằng chữ thanh viên 靑圓 là nói quả mơ được thành hình vừa tròn vừa xanh, mượn ý câu thơ trong bài “Thán hoa 嘆花” của Đỗ Mục 杜牧:

 

綠葉成陰子滿枝. Lục diệp thành âm tử mãn chi.

Lá xanh thành bóng mát, quả đầy cành”.

 

Dịch Nghĩa

Hoa mai rụng.

(Như) vết hằn của son phấn trên mặt cung nữ,

(Phảng phất như ảnh) người tiên giữa từng mây đang rơi xuống,

Nơi vũng nước hoang dã không người.

Hương sắc chôn vùi nơi hòn đá cổ xưa,

Mớ xương móc nối thành chuỗi táng ở bãi cát vàng.

Không hận vì khúc sáo ngang thổi (bài mai hoa lạc) ở lầu nam,

Hận vì cơn gió sớm thổi qua ngàn dặm quan sơn.

(Hoa mai) bị thổi tơi tả quá nửa, u hương khuyếch tán vào đình viện lúc hoàng hôn,

Dưới ánh trăng lạnh lẽo chiếu trên lan can.

(Hoặc là dưới ánh trăng hoa mai bay lả tả ngang dọc).

 

Thọ Dương công chúa soi gương mà buồn lòng.

Hỏi ai chế được thuốc ngọc tủy,

(Để) âm thầm chữa trị vết hằn (do hoa mai trên trán công chúa Thọ Dương)?

Chim hồng nhạn bay về trong làn mưa bụi,

Những ngày xuân lạnh lẽo kéo dài vô hạn trên đất Cô sơn (đầy hoa mai).

Khó nhờ được ai chiêu hồi linh hồn đã đi xa,

(Chỉ còn) trong mộng gặp nàng, mặc áo trắng ở bên suối trao cho tôi viên ngọc bội.

Rất (làm cho) người sầu khổ, (là nghe) chim hót (trên cành mai) trong những ngày tạnh ráo,

Dưới lá cây (truyền ra) âm thanh trong sáng.

(Hoặc là dưới lá cây, có quả xanh tròn).

 

Phỏng Dịch

 

1 Cao Dương Đài - Lạc Mai

 

Vệt phấn cung nhân.

Mây tiên lạc ảnh,

Không người nước đục đầm hoang.

Ghềnh đá chôn hương,

Cát vàng vùi cốt liên hoàn.

Lầu nam chẳng hận tàn mai sáo,

Hận gió mai, ngàn dặm quan san.

Bán phiêu linh, sân vắng hoàng hôn,

Trăng lạnh lan can.

 

Soi gương công chúa buồn than.

Hỏi ai đem thuốc quý,

Chữa vết bầm thâm.

Cánh nhạn mưa bay,

Cô sơn xuân lạnh vô ngần.

Ly hồn khó triệu về thân cũ,

Mộng bạch y, cởi ngọc bờ giang.

Rất buồn lòng, chim hót ngày khô,

Dưới lá xanh vang.

 

2 Lạc Mai

 

Vết hằn son phấn cung nhân,

Lướt mây tiên ảnh xuống trần chơi vơi.

Vũng lầy nước lạnh không người,

Đá xưa hương sắc chôn vùi mộ hoang.

 

Cát vàng xương móc liên hoàn,

Cửa nam không hận hoa tàn sáo ngang.

Hận gió sớm miền quan san,

Phiêu linh hương tỏa hôn hoàng góc sân.

 

Lạnh lùng ánh nguyệt lan can,

Thọ Dương công chúa gương loan muộn phiền.

Hỏi ai điều chế thuốc tiên,

Âm thầm xóa vết hằn trên trán nàng.

 

Quy hồng mưa bụi lang thang,

Cô sơn mai rụng xuân hàn vô biên.

Ly thân hồn phách triền miên,

Khó nhờ chiêu gọi, nỗi niềm khôn khuây.

 

Bạch y, trong mộng gặp người,

Bên sông cởi ngọc sáng ngời minh châu.

Chim kêu ngày tạnh u sầu,

Quả tròn dưới lá xanh mầu ngày qua.

 

HHD 1-2023


 

0 comments:

Post a Comment