高陽臺 - 張炎 Cao Dương Đài – Trương Viêm
西湖春感 Tây
hồ xuân cảm
接葉巢鶯, Tiếp
diệp sào oanh,
平波卷絮, Bình
ba quyển nhứ,
斷橋斜日歸船。 Đoạn kiều tà nhật quy thuyền.
能幾番遊? Năng
kỷ phiên du?
看花又是明年。 Khán hoa hựu thị minh niên.
東風且伴薔薇住, Đông phong
thả bạn tường vi trú,
到薔薇、春已堪憐。Đáo tường vi, xuân dĩ kham liên.
更悽然、萬綠西泠,Cánh thê nhiên, vạn lục Tây Linh,
一抹荒煙。 Nhất mạt hoang yên.
當年燕子知何處? Đương niên yến
tử tri hà xứ?
但苔深韋曲, Đản đài
thâm vi khúc,
草暗斜川。 Thảo ám Tà Xuyên.
見説新愁, Kiến
thuyết tân sầu,
如今也到鷗邊。 Như kim dã đáo âu biên.
無心再續笙歌夢, Vô tâm tái tục
sinh ca mộng,
掩重門、淺醉閒眠。Yểm trùng môn, thiển túy nhàn miên.
莫開簾、怕見飛花,Mạc khai liêm, phạ kiến phi hoa,
怕聽啼鵑。 Phạ
thính đề quyên.
Chú Thích
1- Cao dương đài 高陽臺 hay
cao dương đài 高陽台: tên từ bài lấy từ bài cao đường phú 高唐賦 của Tống Ngọc 宋玉 khi
xưa. Tên khác là Khánh xuân trạch 慶春澤. Khánh xuân cung 慶春宮, Khánh xuân trạch mạn 慶春澤慢. Bài này có 100 chữ, đoạn trước và đoạn sau đều có 4 bình vận. Toàn bài
không đổi vận. Cách luật (long phổ định cách):
X T B B cú
B B T T cú
X B X T B B vận
X T B B cú
X B X T B B vận
X B X T B B T cú
T X B, X T B B vận
T B B, X T B B cú
X T B B vận
B B T T B B T cú
T B B X T cú
X T B B vận
X T B B cú
X B X T B B vân
X B X T B B T cú
T X B, X T B B vận
T B B, X T B B cú
X T B B vận
B: thanh bình; T: thanh trắc;
X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần
2- Tây hồ 西湖: hồ nước là thắng cảnh ở Hàng Châu, TH.
3- Tiếp diệp sào oanh 接葉巢鶯: lá cây liền nhau, chim oanh làm tổ. Do bài thơ “Bồi Trịnh Quảng Văn du Hà Tướng quân sơn
lâm kỳ 2 陪鄭廣文遊何將軍山林其二: bồi tiếp ông Trịnh Quảng Văn đi chơi khu vườn rừng của
Hà tướng quân” của Đỗ Phủ 杜甫:
卑枝低結子,Ty chi đê kết tử, Quả (trên cây) làm cành thấp xuống,
接葉暗巢鶯。Tiếp diệp ám sào oanh. Lá cây liền nhau, ẩn tàng tổ
chim oanh.
4- Bình ba 平波: sóng lặng.
5- Đoạn kiều 斷橋: tên một cây cầu ở Hàng Châu, TH.
6- Tà nhật 斜日: buổi chiều lúc mặt trời sắp lặn.
7- Đông phong 東風: gió xuân. Từ cổ đại người Trung Hoa đã tương phối bốn
mùa, tứ phương, mầu sắc với ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ 金木水火土) và bát quái (càn, khảm cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài 乾坎艮震 巽離坤兌). Theo đó thì phương
đông và mùa xuân thuộc hành mộc và quẻ chấn, phương tây và mùa thu thuộc hành
kim và quẻ đoài, phương nam và mùa hạ thuộc hành hỏa và quẻ ly, phương bắc và mùa
đông thuộc hành thủy và quẻ khảm. Văn chương cổ thường chiếu theo điều này mà gọi
gió xuân là gió đông, gió thu là gió tây (đôi khi gọi là kim phong = gió vàng).
8- Thả且: hãy.
9- Tường vi薔薇: loại cây hoa hồng leo thường trồng ở hàng rào.
10- Kham liên堪憐 = trị
đắc khả liên值得可憐: đáng được thương tiếc.
11- Tây Linh西泠: tên một cây cầu ở Tây hồ, Hàng Châu杭州, TH.
12- Nhất mạt 一抹 = nhất
phiến 一片: một phiến, một tấm.
13- Vi khúc 韋曲: địa danh. Vào
đời Đường 唐, ở phía nam thành Trường An 長安 có
gia đình quý tộc họ Vi 韋 sinh sống ở đây qua
nhiều thế đại vì vậy mang tên Vi Khúc.
14- Tà Xuyên 斜川: tên đất, là một thắng cảnh nằm bên cạnh thị trấn
Tinh Tử 星子thuộc tỉnh Giang Tây 江西,
TH.
15- Âu biên 鷗邊: Theo sách “Quốc Ngữ Từ Điển Giản Biên Bản 國語辭典簡編本” của Lý Tiển 李鍌 ở
Đài Loan 台灣 thì chữ “Âu Biên” có nghĩa là thủy biên 水邊 = bên
bờ nước. Trong bài này, chữ âu biên ngụ ý nói vì sầu muộn mà đầu bạc như lông
chim sa âu 沙鷗. Dẫn chứng là trong một bài từ Bồ tát man 菩薩蠻 của Tân Khí Tật 辛棄疾 có
câu:
拍手笑沙鷗,Phách thủ tiếu sa âu, Vỗ tay cười chim sa âu,
一身都是愁。Nhất thân đô thị sầu. Toàn thân đều (trắng như) là
sầu muộn.
16- Sinh ca 笙歌: sênh ca, tấu nhạc và ca hát, đàn hát. Sinh ca mộng 笙歌夢: mơ đến những
ngày đàn hát vui vẻ, mơ đến những ngày vui xưa.
17- Trùng môn 重門: cửa đôi.
18- Nhàn miên 閒眠: giấc ngủ, giấc ngủ không bị quấy nhiễu. Mượn chữ của
Bạch Cư Dị 白居易 trong
bài thơ “Nhàn miên 閑眠”:
暖牀斜臥日曛腰,Noãn sàng tà ngọa nhật huân yêu,
一覺閑眠百病銷。Nhất giáo
nhàn miên bách bệnh tiêu.
Nằm nghiêng trên giường ấm
ánh nắng chiều chiếu eo,
Một giấc ngủ an lành trăm
bệnh tiêu tan.
19- Đề quyên 啼鵑: chim cuốc kêu.
Dịch Nghĩa
Ghi chú của tác giả: Cảm tưởng
mùa xuân ở Tây Hồ.
Chim oanh làm tổ trong lá cây
um tùm,
(Nước hồ) phẳng lặng, nhánh dương
liễu xoắn với nhau,
Lúc hoàng hôn thuyền quay về
nơi Đoạn Kiều.
(Còn) có thể đi chơi xuân được
mấy lần? (vì xuân sắp hết)
(Muốn) xem hoa lại (phải chờ)
sang năm.
Gió xuân hãy làm bạn với hoa
tường vi,
Chờ khi hoa tường vi nở, mùa
xuân đã (thoi thóp đến) đáng thương.
Càng thê lương (là), vạn cây
xanh ở Tây Linh…
(Chỉ còn là) một phiến khói sương
hoang dã.
Những chim yến năm xưa (ở đây)
nay về đâu?
Chỉ (thấy) rêu xanh phủ dầy
chốn hào môn cư sở,
Cỏ mọc tràn lan nơi thắng cảnh
xưa.
Thấy nói đến cái sầu mới (này),
Như nay cũng đến với cả chim
sa âu.
(Tôi) không có lòng nào nối lại
giấc mộng hoan lạc xưa,
(Mà) đóng kín cửa nhà, (Nhâm
nhi) chút rượu say ngủ một giấc an nhàn.
Chớ vén màn cửa, (tôi) sợ nhìn
thấy hoa tàn bay bay,
Sợ nghe thấy tiếng chim cuốc
kêu (bi thiết) (nhớ nước cũ mà đau lòng).
Phỏng Dịch
1 Cao Dương Đài – Tây Hồ
Xuân Cảm
Lá nối chim oanh,
Hồ yên liễu cuốn,
Thuyền về cầu Đoạn chiều
tà,
Còn mấy du xuân?
Sang năm mới lại xem hoa.
Gió xuân hãy bạn tường vi ấy,
Đến tường vi, xuân đã mờ
nhòa.
Càng thê lương, lục sắc Tây
Linh,
Một phiến sương sa.
Năm xưa cánh én về đâu đó?
Lớp rêu xanh lầu các,
Cỏ ám quê nhà.
Thấy nói tân sầu,
Ngày nay đến cả cò ta.
Lòng nào nối tiếp đàn ca mộng,
Cửa cài then, giấc ngủ say
ngà.
Hãy buông rèm, sợ thấy hoa
bay,
Sợ cuốc kêu ca.
2 Tây Hồ Xuân Cảm
Lá dầy xây tổ chim oanh,
Nước hồ phẳng lặng xoắn cành liễu
dương.
Thuyền về cầu Đoạn tà dương,
Chơi xuân còn được lên hương
mấy lần?
Sang năm đợi ngắm hoa xuân,
Gió xuân xin hãy bạn gần tường
vi.
Tường vi hoa nở đến kỳ,
Ngày xuân thương cảm buồn vì
tàn nhanh.
Càng thê thảm vạn cây xanh,
Khói hoang một phiến Tây Linh
đượm mầu.
Năm xưa chim yến nay đâu?
Lớp rêu dầy phủ ngập lầu phồn
hoa.
Tà Xuyên cỏ ám mọi nhà,
Thấy rằng sầu mới như là chim
âu.
Sênh ca mộng, không lòng nào,
Cửa đôi khép kín rượu vào ngủ
yên.
Ai ơi xin chớ mở rèm,
Sợ nhìn hoa rụng trước thềm
tung bay.
Sợ nghe chim cuốc hồn ngây,
Đau lòng nhớ nước đêm ngày
than van.
HHD 10-2024
0 comments:
Post a Comment