Saturday, December 1, 2018

Thích Thị - Liễu Vĩnh

戚氏 - 柳永           Thích Thị - Liễu Vĩnh

 

晚秋,                                   Vãn thu thiên,

一霎微雨灑庭.       Nhất sáp vi vũ sái đình hiên.

檻菊蕭疏,                               Hạm cúc tiêu sơ,

井梧零亂惹殘.        Tỉnh ngô linh loạn, nhạ tàn yên.

,                                       Thê nhiên,

望江.                                   Vọng giang quan,

飛雲黯淡夕陽.        Phi vân ảm đạm tịch dương gian.

當時宋玉悲感,            Đương thời Tống ngọc bi cảm,

向此臨水與登.        Hướng thử lâm thủy dữ đăng sơn.

遠道迢遞,                               Viễn đạo điều đệ,

行人悽楚,                               Hành nhân thê sở,

倦聽隴水潺.            Quyện thính lũng thủy sàn viên.

正蟬鳴敗葉,                Chính thiền minh bại diệp,

蛩響衰草,                     Cùng hưởng suy thảo,

相應聲.                     Tương ứng thanh huyên.

 

孤館度日如,            Cô quán độ nhật như niên,

風露漸變.                     Phong lộ tiệm biến,

悄悄至更.                Thiểu thiểu chí canh lan.

長天靜讀絳河清,    Trường thiên tĩnh, giáng hà thanh thiển,

皓月嬋.                     Hạo nguyệt thuyền quyên.

思綿綿,                                   Tư miên miên,

夜永對景,                               Dạ vĩnh đối cảnh,

那堪屈指,                               Na kham khuất chỉ,

暗想從.                               Ám tưởng tùng tiền.

未名未祿,                               Vị danh vị lộc,

綺陌紅樓,                               Ỷ mạch hồng lâu,

往往經歲遷.            Vãng vãng kinh tuế thiên diên.

 

帝里風光好,                Đế lý phong quang hảo,

當年少日,                     Đương niên thiếu nhật,

暮宴朝.                     Mộ yến triêu hoan.

况有狂朋怪侶,            Huống hữu cuồng bằng quái lữ,

遇當歌對酒競留.    Ngộ đương ca đối tửu cạnh lưu liên.

別來迅景如梭,                      Biệt lai tấn cảnh như thoa,

舊遊似夢,                              Cựu du tự mộng,

煙水程何?                         Yên thủy trình hà hạn?

念利名讀憔悴長縈,         Niệm lợi danh, tiều tụy trường oanh bạn,

追往事讀空慘愁.              Truy vãng sự, không thảm sầu nhan.

漏箭移讀稍覺輕,             Lậu tiễn di, sảo giác khinh hàn,

聽嗚咽讀畫角數聲.         Thính ô yết, họa giác sổ thanh tàn.

對閒窗畔,                              Đối nhàn song bạn,

停燈向曉,                              Đình đăng hướng hiểu,

抱影無.                              Bão ảnh vô miên.

 

Chú Thích

1- Thích thị 戚氏:tên từ điệu do Liễu Vĩnh sáng tác, gồm 212 chữ, 3 đoạn, đoạn 1 có 15 câu và 9 bằng vận, đoạn 2 có 12 câu và 6 bằng vận, đoạn 3 có 15 câu và 6 bằng vận, 2 diệp vận.               

          Diệp vận có cùng vần với chính vận nhưng khác thanh âm. Thí dụ chính vận là "Yên" thì diệp vận sẽ là yến, yển, tiến, tiện, diện v.v.   

Cách luật:  

 

T B B vận

X X B T T B B vận

T T B B cú

T B X T T B B vận

B B vận

T B B vận

B B X T T B B vận

B B T T B T cú

T X B T T B B vận

X X B T cú

B B X T cú

T B X T B B vận

T B B T T cú

B X X T cú

X T B B vận

  

B T T T B B vận

B X T T cú

T T T B B vận

B B T, T B X T cú

T T B B vận

T B B vận

T T T T cú

B B T T cú

T T B B vận

T B T T cú

T T B B cú

X T X T B B vận

  

T T B B T cú

X B T T cú

T T B B vận

T T B B T T cú

T B B T T T B B vận

T B T T B B cú

T B T T cú

X T B B T diệp

T T B, X T B B T diệp

X X X, B T B B vận

T T X, X T B B vận

T X X, T T T B B vận

T B B T cú

B B T T cú

T T B B vận

 

B: bình thanh, T: trắc thanh, X: bất luận, diệp: vần lá, cú: hết câu, vận: vần.

 

2- Nhất sáp (siếp, thiếp) 一霎:một trận, 1 đoạn thời gian ngắn.

3- Đình hiên 庭軒:trong bài này có nghĩa là đình viện 庭院, sân vườn.

4- Hạm cúc 檻菊:Hoa cúc trồng ở hàng rào hoặc lan can.

5- Tỉnh ngô 井梧:Cây ngô đồng cổ thụ trồng ở gần giếng nước. Trong bài thơ Tỉnh ngô ngâm 井梧吟 của Tiết Đào 薛濤 đời Đường có câu: " Đình trừ nhất cổ đồng, tũng cán nhập vân trung. Chi nghinh nam bắc điểu, Diệp tống vãng lai phong 庭除一古桐,聳干入雲中。枝迎南北鳥,葉送往來風。" = Cây ngô đồng ở trong sân vườn, thân cao chọc vào mây. Cành đón chim nam bắc, Lá đưa gió qua lại.

6- Giang quan 江關:Phiếm chỉ Giang nam, hoặc chỉ quang cảnh trong nước. Giang quan cũng là tên một quan ải đời chiến quốc, thuộc tỉnh Tứ Xuyên TH, ở trên núi phía bắc sông Trường giang. Giang quan cũng là tên 1 thị trấn nay là Kinh Môn  thuộc tỉnh Hồ Bắc 湖北, TH.

7- Tống Ngọc bi cảm 宋玉悲感:Bài Sở từ "Cửu biện九辯"của Tống Ngọc đời Chiến quốc 戰国 được làm do cảm khái về nỗi buồn của mùa thu, nỗi tịch mịch của người lữ khách sinh bất phùng thời.

8- Điều đệ 迢遞 = điều đái 迢遰:dáng vẻ xa xôi, khúc chiết, liên miên bất tuyệt, thời gian dài đăng đẳng, hay trạng thái suy tư xa xôi.

9- Lũng thủy 隴水= Lũng đầu lưu thủy 隴頭 流水: Dòng nước chẩy trên đỉnh núi Lũng sơn. Trong bài hát Lũng đầu ca của nhạc phủ có câu:

 

隴頭流水,流離山下。Lũng đầu lưu thủy, lưu ly sơn hạ.

念吾一身,飄然曠野。Niệm ngô nhất thân, phiêu nhiên khoáng dã.

朝發欣城,暮宿隴頭。Triêu phát Hân thành, Mộ túc Lũng đầu.

寒不能語,舌捲入喉。Hàn bất năng ngữ, Thiệt quyển nhập hầu.

隴頭流水,鳴聲嗚咽。Lũng đầu lưu thủy, minh thanh ô yết.

遙望秦川,心肝斷絕。Dao vọng Tần xuyên, Tâm can đoạn tuyệt.

Dòng nước ở Lũng Đầu, chẩy xuống chân núi.

Nghĩ một thân tôi, phiêu du miền khoáng dã.

Sáng xuất phát từ Hân thành, chiều nghỉ ở Lũng đầu.

Lạnh không nói được, Cái lưỡi cuốn vào trong cổ họng.

Dòng nước ở Lũng đầu, Tiếng kêu róc rách.

Nhìn xa đất Tần Xuyên, lòng dạ buồn tan nát.

 

10- Sàn viên 潺湲:dáng nước chảy róc rách.  

11- Cùng 蛩: con dế mèn (tất suất 蟋蟀).

12- Canh lan  闌:gần canh năm, đêm khuya.

13- Giáng hà 絳河:tức ngân hà 銀河. Thiên không gọi là giáng tiêu 絳霄,ngân hà gọi là giáng hà 絳河.

14- Thanh thiển 清淺: trong vắt và nông (Ở đây chỉ dải ngân hà theo truyền thuyết nước sông ngân hà trong vắt và nông chứ không sâu).

15- Thuyền quyên 婵娟:gương mặt đẹp đẽ.

16- Dạ vĩnh 夜永:đêm dài.

17- Khuất chỉ 屈指: bấm ngón tay tính toán,

18- Ỷ (khỉ) mạch hồng lâu 綺陌紅còn gọi là hoa nhai thanh lâu 花街青樓: con đường phồn hoa có ca lâu kỹ viện. Ỷ mạch 綺陌 = con đường phồn hoa.

19- Kinh tuế 經歲:kinh niên 經年.

20- Thiên diên 遷延: đình lưu xa nhà hoặc lưu trú ở lữ quán, tư do tự tại, không bị câu thúc.

21- Đế lý 帝里: kinh thành 京城。

22- Cuồng bằng quái lữ狂朋怪侣: bạn bè ngông cuồng cao ngạo.

23- Cạnh : cạnh tương 競相 = cạnh tranh, tranh nhau.

24- Lưu liên 留連: không muốn bỏ đi. Cũng viết là lưu liên 流連.

25- Tấn cảnh 迅景: năm tháng.

26- Thoa (toa) : con thoi trên khung cửi dệt vải, chạy qua chạy lại rất nhanh vì vậy có câu tục ngữ rằng "Năm tháng như thoi đưa".

27- Trình  = lộ trình 路程.

28- Hà hạn 何限: vô hạn, vô biên, nhiều ít, bao nhiêu.

29- Oanh bạn 縈絆 = củ triền纠缠: quấn quit.

30- Lậu tiễn 漏箭: đồng hồ thời xưa dùng nước nhỏ giọt để tính thời gian. Lậu tiễn di 漏箭移: thời gian đi qua.

31- Họa giác 畫角: tù và dùng trong quân đội.

32- Đình đăng 停燈: tắt đèn.

33- Bảo ảnh vô miên 抱影無眠: một mình suốt đêm không ngủ.

 

Dịch Nghĩa

Cuối mùa thu (thâm thu)

Một trận mưa ngắn ướt sân vườn.

Bụi cúc ở lan can xơ xác.

Cây ngô đồng ở cạnh giếng điêu tàn, bị khói tàn bao phủ.

(Cảnh sắc) thê lương,

Nhìn xa sông núi quan sơn,

Mây bay ảm đạm giữa ánh sáng chiều tà.

Ngày xưa Tống Ngọc cảm động buồn bã (trước cảnh thu),

Từ đó đã đi (ngắm cảnh) sông nước núi non.

Đường xá xa xôi khúc chiết,

Người đi thê thảm khổ sở,

Mệt mỏi nghe dòng nước chảy róc rách.

Chính (tại lúc) ve sầu kêu than lá rụng,

Tiếng dế mèn kêu không ngừng trong đám cỏ tàn,

(Mọi âm thanh) tiếng dứt tiếng nối huyên náo.

 

(Sống) tại quán trọ (hay dịch quán) cô đơn 1 ngày như 1 năm,

Gió sương dần dần biến đổi (lạnh lẽo thêm),

Lặng lẽ đến đêm khuya.

Bầu trời yên tĩnh (không mây), dải ngân hà trong vắt và nông(không sâu)

Trăng sáng đẹp đẽ.

Suy tư liên miên,

Suốt đêm dài đối trước cảnh (này),

Không chịu đựng nổi, bấm ngón tay tính toán,

Ngấm ngầm nghĩ đến chuyện ngày xưa,

Chưa có công danh tài lộc,

(Lui tới) con đường phồn hoa có ca lâu kỹ viện,

Thường thường kinh niên tự do tự tại, (hao phí thời gian) xa nhà.

 

Phong cảnh kinh đô đẹp,

Những ngày thời niên thiếu,

Chiều yến tiệc sáng vui chơi.

Huống chi có bạn bè ngông cuồng, quái dị,

Gặp ca hát, gặp rượu thì tranh nhau ở lại không về.

Từ lúc biệt ly đến nay năm tháng như thoi đưa,

Vui chơi xưa như giấc mộng,

Lộ trình (trước mặt) khói sương vô hạn.

Nghĩ lợi danh, cái tiều tụy nó quấn quít tôi mãi (làm tôi mãi tiều tụy),

Truy tìm việc cũ, chỉ để lại dung nhan buồn thảm.

Thời gian trôi đi, hơi cảm thấy lạnh lẽo,

Nghe nức nở dư âm của vài tiếng tù và (vọng lại).

Đứng trước cửa sổ,

Tắt đèn chờ sáng,

Ôm lấy hình ảnh (cô đơn của mình) (suốt đêm) không ngủ.

 

Phỏng Dịch

 

Buồn Cuối Thu

 

Cuối thu một thoáng mưa phùn,

Mái hiên ướt nước cúc vườn tiêu sơ.

Ngô đồng bên giếng bơ phờ,

Khói mờ vây phủ sững sờ giang quan.

 

Tịch dương ảm đạm mây ngàn,

Mỗi khi lâm thủy đăng san bồi hồi.

Trên đường diệu vợi xa xôi,

Người đi gian khổ đỉnh đồi suối than.

 

Ve kêu rền rĩ lá vàng,

Dế mèn than vãn cỏ tàn huyên huyên.

Một ngày quán vắng như niên,

Gió sương dần lạnh, lặng yên đêm tàn.

 

Trường thiên thu tĩnh miên man,

Ngân hà trong cạn trăng vàng đẹp xinh.

Đêm dài nghĩ ngợi linh tinh,

Cảnh thu khắc khoải tâm tình khôn nguôi.

 

Chưa danh chưa lợi cuộc đời,

Con đường hoa lệ tới lui bao ngày.

Kinh đô cảnh sắc tuyệt vời,

Thiếu niên thủa ấy ăn chơi sớm chiều.

 

Huống chi bạn hữu ngông liều,

Rượu chè ca hát đôi điều quẩn quanh.

Biệt rồi năm tháng trôi nhanh,

Vui xưa như mộng, lộ trình khói sương.

 

Lợi danh tiều tụy đoạn trường,

Nhìn về quá khứ sầu thương mặt người.

Đồng hồ giọt nước lạnh rơi,

Tù và vài tiếng chơi vơi ngập ngừng.

 

Đối nhàn đứng dựa bên song,

Đèn tàn, chờ sáng, ôm lòng trắng đêm.

 

HHD 12-2018

 

 

Bản Dịch của Lộc Bắc

 

Thích Thị - Liễu Vĩnh

         

1-     

Sắp mãn phiên,

Mưa thu một trận tưới hàng hiên.

Cúc giậu xác sơ,

Cây ngô điêu tàn, khói phủ lên.

Khổ phiền,

Vọng giang san,

Mây bay ảm đạm, ánh dương tàn.

Tống Ngọc xưa khi sầu cảm,

Viếng thăm sông nước lẫn trèo non.

Đường xa thăm thẳm,

Hành nhân khổ sở,

Mệt nghe nước chảy triền miên.

lúc ve kệu lá rụng,

Dế mèn cỏ gáy,

Tương ứng hàn huyên.

 

Ngày qua quán vắng một niên,

Gió sương dần đổi,

Lặng lẽ đến canh tàn.

Trời yên tĩnh, ngân hà trong cạn,

Trăng sáng tròn xinh.

Nghĩ triền miên,

Suốt đêm ngắm cảnh,

Mở tay bấm đốt,

Thầm tính nhãn tiền.

Chưa danh, chưa lộc,

Con đường ca lâu,

Thời gian hoang phí kinh niên.

 

Phong cảnh đế đô đẹp,

Ngày xưa niên thiếu,

Chiều yến sáng hoan.

Bạn bè ngông cuồng quái đản,

Gặp hát, gặp rượu nán lại triền miên.

Biệt ly ngày tháng thoi đưa,

Vui xưa như mộng,

Nay, khói sương vô hạn?

Thêm lợi danh, tiều tụy theo như bạn,

Truy việc cũ, sầu thảm dung nhan.

Hơi thấy lạnh lúc cảm thời gian,

Nghe nức nở, tù và rúc âm tàn.

Nhàn trước song cửa,

Tắt đèn chờ sáng,

Ôm ảnh, mơ màng!    

 

2-     

Mưa thu tưới ướt hàng hiên

Cúc, ngô sơ xác khói lên điêu tàn

Khổ phiền trông vọng quan san

Mây bay ảm đạm, dương tàn, chiều đi

Xưa kia Tống Ngọc sầu bi

Lúc thăm sông nước, khi thì trèo non

Đường xa đau khổ hành nhân

Mệt nghe nước chảy rần rần về xuôi

Ve kêu lá rụng bồi hồi

Dế mèn cỏ nấp góp lời hàn huyên

 

 

Một ngày quán vắng, một niên

Gió sương lạnh lẽo dần lên canh tàn

Ngân hà yên tĩnh trong khan

Sáng trăng đẹp đẽ muộn vàn nghĩ suy

Suốt đêm đối cảnh sầu bi

Bấm tay tính toán chi li nhãn tiền

Chưa danh, chưa lộc, ưu phiền

Ca lâu tửu điếm thường xuyên phì hoài

 

 

Đế đô phong cảnh tuyệt vời

Ngày xưa niên thiếu vui chơi hoang đàng

Chiều yến tiệc, sáng truy hoan

Bạn bè quái đản, điếm đàng, cuồng ngông

Rượu, ca nán lại lòng vòng

Tháng ngày ly biệt thoi bông tít mù

Ngày xưa vui sống mộng mơ

Ngày nay sương khói mịt mờ bóng câu

Lợi danh, tiều tụy theo nhau

Việc qua nghĩ lại thảm sầu dung nhan

Thời gian lạnh lẽo thốn tâm

Tù và nức nở, thanh âm nát lòng

Tắt đèn đứng dựa bên song

Cô đơn ôm ấp, ngủ không thiết gì!

 

LB

 

 

 

 

 


0 comments:

Post a Comment