Saturday, August 11, 2018

Thủy Điệu Ca Đầu - Tô Thức


Tô Thức hiệu là Đông Pha, cùng em là Tô Triệt tự là Tử Do, người tỉnh Tứ Xuyên, đều học giỏi và thi đậu tiến sĩ cùng một khoa. Cả hai người đều làm quan to, trải qua rất nhiều thăng trầm. Tô Thức là người tài hoa, cùng một lúc là họa sĩ, văn sĩ, thi vương, từ bá. Trên từ đàn, ông ngang hàng với Liễu Vĩnh, người nổi tiếng thời ấy. Ông đưa nhiều cải cách vào các bài từ, không chịu sự bó buộc của cách luật. Ông đã chuyển truyền thống âm nhạc của từ, phá vỡ hạn chế cách luật của từ, nới rộng phạm vi đề tài của từ, nâng cao cảnh giới phong cách của từ, khiến cho từ mà hoá thành thơ, có thể dùng để vịnh sử, hoài cổ, lý thuyết, trữ tình, đủ mọi phương diện. 
Thủy điệu ca đầu là một đoạn của "Thủy điệu". Bài này ông làm để tỏ lòng nhớ em là Tô Triệt đang làm việc ở xa.   

水調歌頭     蘇軾       Thủy Điệu Ca Đầu    Tô Thức  
 丙辰中秋,歡飲達旦,大醉,作此篇兼懷子由                   
Bính thìn trung thu, Hoan ẩm đạt đánĐại túy, Tác thử thiên kiêm hoài Tử Do.   

明月幾時有,              Minh nguyệt kỷ thời hữu,
把酒問青天。              Bả tửu vấn thanh thiên.
不知天上宮闕,          Bất tri thiên thượng cung khuyết,
今夕是何年。              Kim tịch thị hà niên.
我欲乘風歸去,          Ngã dục thừa phong qui khứ,
惟恐瓊樓玉宇,          Duy khủng Quỳnh lâu ngọc vũ,
高處不勝寒。              Cao xứ bất thắng hàn.
起舞弄清影,              Khởi vũ lộng thanh ảnh,
何似在人間。              Hà tự tại nhân gian.
轉朱閣,                      Chuyển chu các,
低綺戶,                      Đê ỷ hộ,
照無眠。                      Chiếu vô miên.
不應有恨,                  Bất ưng hữu hận,
何事長向別時圓。      Hà sự trường hướng biệt thời viên.
人有悲歡離合,          Nhân hữu bi hoan ly hợp,
月有陰晴圓缺,          Nguyệt hữu âm tình viên khuyết,
此事古難全。              Thử sự cổ nan toàn.
但願人長久,              Đản nguyện nhân trường cửu,
千里共嬋娟。              Thiên lý cộng thuyền quyên.  

Chú Thích
1- Bính thìn 丙辰:Năm 1078, Tô Đông Pha đang giữ chúc Thái Thủ ở Mật Châu, Sơn Đông, TH.
2- Đạt đán 達旦đến trời sáng.
3- Tử Do 子由:Em trai của Tô Đông Pha là Tô Triệt , hiệu Tử Do.
4- Bả tửu把酒:Nâng cao ly rượu.
5- Thiên thượng cung khuyết天上宫闕:ám chỉ cung điện trên mặt trăng. Khuyết: cửa cung điện của nhà vua.
6- Thừa phong乘風:cưỡi gió.
7- Quỳnh lâu ngọc vũ瓊樓玉宇:nhà lầu xây bằng ngọc, đá quý.
8- Bất thắng (người xưa đọc là thăng) 不勝:không hơn, không chịu đựng được.
9- Lộng thanh ảnh弄清影:chơi đùa với bóng hình dưới ánh trăng.
10- Hà tự何似:= hà như何如: sao như, sao bằng.
11- Châu các 朱閣: gác tía.
12- Ỷ hộ 綺戶: cửa đẹp.
13- Vô miên 無眠: (người) đang thức, không ngủ.
14- Bất ưng 不應: không nên.
15- Trường hướng 長向: nhắm mãi vào. 
16- Biệt thời 別時: lúc ly biệt.
17- Thử sự此事:việc này (việc người vui buồn hợp tan và trăng tròn sáng khuyết tàn).
18- Đản但:chỉ.
19- Thuyền quyên 嬋娟:nguyên chỉ việc tốt đẹp, cũng chỉ trăng sáng.

Dịch nghĩa
Trung thu năm bính thìn,vui uống rượu tới sáng,viết bài này lúc đang say, lại nhớ Tử Do 
(= Tô Triệt, em của Tô Thức).  
Trăng sáng lúc nào có, (= trong vũ trụ trăng sáng đầu tiên từ có lúc nào). 
Nâng rượu hỏi trời xanh. (lấy ý từ bài thơ "Bả tửu vấn nguyệt"của Lý Bạch, Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thời, ngã kim đình bôi nhất vấn chi).
Không biết trên cung trăng (Khuyết  = cửa cung vua; Thiên thượng cung khuyết = chỉ cung điện trên mặt trăng)
Đêm nay là năm nào. (Truyền thuyết: 1 ngày trên thiên cung bằng 1 năm nơi hạ giới)
Tôi muốn cưỡi gió bay về  (lên mặt trăng) (Tự cho mình là người trời tạm xuống trần gian)
Chỉ sợ cung điện trên mặt trăng ( = Quỳnh lâu ngọc vũ )
(Bản khác chép  Hựu  (hoặc Duy ) khủng quỳnh lâu ngọc vũ = lại sợ quỳnh lâu ngọc vũ)   
Chỗ cao không hơn lạnh (Chỗ cao lại thêm lạnh).   
Đứng lên nhẩy múa, cái bóng múa theo.   
Sao như ở nhân gian (Ở trên cung trăng không bằng ở nhân gian).
(Hà tự 何似  =  cổ văn, có ý so sánh) (Trên cung trăng cũng có tiên nữ múa hát)    
(Ánh trăng)Xoay chuyển qua gác đỏ, (Nơi gác đỏ thời gian từ từ trôi).
Thấp đến cửa đẹp. (Ỷ  = đẹp đẽ) (Đêm đã về khuya)
(ánh trăng) chiếu vào (người có tâm sự) làm mất ngủ.    
(Mặt trăng) Không nên buồn hận. 
Vì lý do gì cứ vào lúc biệt ly thì trăng lại tròn.        
Người có lúc buồn, vui, ly, hợp.    
Trăng có lúc tối, sáng, tròn, khuyết.    
Việc này từ cổ xưa (đến nay) không hoàn toàn.   
Cầu nguyện con người được lâu dài. (Người thân ở nơi xa được bình yên)
(Người thân ở) Ngàn dặm xa cùng (vui hưởng) cái đẹp (của trăng).
(Thuyền quyên 嬋娟  = đẹp đẽ).    

Phỏng Dịch 

Ông trăng có lúc nào,
Nâng rượu hỏi trời cao.
Cung điện ở trên ấy,
Đêm nay thuộc năm nào?

Ta mong cưỡi gió bay,
Về ngọc vũ nơi này,
Chỉ sợ trên cung khuyết,
Chỗ cao thêm lạnh đầy.  

Đứng lên nhẩy múa chơi,
Thanh ảnh hòa theo người.
Nào thấy nghê thường khúc,
Nhân gian vẫn hơn trời.

Chuyển xoay qua gác đỏ,
Trăng sáng chiếu song hộ.
Đêm đã dần về khuya,
Lòng buồn người mất ngủ.

Trăng không nên uất hận,
Hay ghét than hờn oán,
Cớ sao lúc biệt ly,
Lại sáng trong viên mãn?

Người tụ tán bi hoan,
Trăng tròn sáng khuyết tàn.
Cổ kim không mấy lúc,
Mọi việc được hoàn toàn.

Nguyện cầu người sống mãi,
Thuyền quyên chung dặm ngàn. 


HHD 1/26/13
      



0 comments:

Post a Comment