Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Wednesday, November 29, 2017

Thước Đạp Chi - Phùng Diên Kỷ

鵲踏枝 - 馮延     Thước Đạp Chi  -  Phùng Diên Kỷ

幾日行云何處     Kỷ nhật hành vân hà xứ khứ?
忘卻歸來,                Vong khước quy lai,
不道春將             Bất đạo xuân tương mộ.
百草千花寒食     Bách thảo thiên hoa hàn thực lộ,
香車系在誰家     Hương xa hệ tại thùy gia thụ?

淚眼倚樓頻獨     Lệ nhãn ỷ lâu tần độc ngữ.
雙燕來時,                Song yến lai thời,
陌上相逢             Mạch thượng tương phùng phủ?
撩亂春愁如柳     Liêu loạn xuân sầu như liễu nhứ,
依依夢里無尋     Y y mộng lý vô tầm xứ.

Chú Thích
1- Thước Đạp Chi 鵲踏枝: Tên từ điệu còn gọi là Điệp Luyến Hoa 蝶戀花Tác giả Phùng Diên Kỷ馮延còn gọi là Phùng Diên Tỵ 馮延巳 hay Phùng Diên Tự 馮延, là 1 từ gia nổi tiếng thời Nam Đường. 
2- Hành vân 行云: sau khi bài “Cao Đường Phú 高唐賦” của Tống Ngọc 宋玉 nói về  Vu sơn thần nữ 巫山 神女 ra đời thì chữ "hành vân" được dùng để ám chỉ người mỹ nhân có hành tung vô định. Trong bài từ này chữ hành vân ám chỉ người tình lang của khuê phụ.
3- Bất đạo 不道: bất giác 不覺 = không biết.
4- Xuân tương mộ 春將暮: xuân sắp tàn.
5- Bách thảo thiên hoa 百草千花: trăm cỏ ngàn hoa, hay nhàn hoa dã thảo 閒花野草, ám chỉ kỹ nữ.
6- Hàn thực 寒食: tiết hàn thực, tiết ăn lạnh, trước tiết thanh minh 1 ngày, được cho là tưởng niệm Giới Tử Thôi đời Chiến quốc.
7- Hương xa 香車: dùng chữ huơng = thơm để làm cho danh từ xa (xe) thêm đẹp đẽ.
8- Tần : nhiều lần, tần độc ngữ 頻獨語  = nói 1 mình mãi.
9- Liễu nhứ 柳絮: nhánh liễu, cành của cây liễu rủ.
10- Vô tầm xứ 無尋處: không biết tìm nơi nào.

Dịch Nghĩa
Bài này thuộc loại “Khuê oán”
(đã) mấy ngày (Chàng như) đám mây nổi bay đi chốn nao?
Quên hẳn về nhà.
Không biết mùa xuân sắp tàn.
Trong tiết Hàn thực này, (Chàng ở trên) đường trăm cỏ ngàn hoa.
Xe (của chàng) đang cột ở gốc cây (trong vườn) nhà ai?
Đứng dựa cửa trên lầu, mắt lệ, nói lẩm bẩm 1 mình.
Lúc đôi chim én đến.
Trên đường có gặp (chàng) không?
Mùa xuân buồn bã, ý tưởng ngổn ngang như tơ liễu.
Tìm chàng trong mộng, không biết tìm nơi đâu.

Phỏng Dịch

Mấy buổi mây bay đến chốn nao?
Quên về có biết xuân phai mầu?
Ngàn hoa trăm cỏ đường cơm lạnh,
Dừng ngựa nhà ai đã bấy lâu.

Đứng tựa lầu cao buông tiếng than,
Chờ mong mắt lệ, én bay sang.
Đường xa có gặp chàng đâu đó?
Liễu rủ xuân sầu ý ngổn ngang.

Loạn bay tơ liễu xuân tàn,
Tìm người trong mộng miên man nơi nào?

HHD


Thursday, November 9, 2017

Thanh Thanh Mạn - Lý Thanh Chiếu

聲聲慢  -  李清照   Thanh Thanh Mạn - Lý Thanh Chiếu
尋尋覓,                          Tầm tầm mịch mịch,
冷冷清清,                          Lãnh lãnh thanh thanh,
淒淒慘慘戚.                   Thê thê thảm thảm thích thích.
乍暖還寒,                           Sạ noãn hoàn hàn,
時候最難將.                   Thời hậu tối nan tương tức.
三杯兩盞淡酒,                   Tam bôi lưỡng trản đạm tửu,
怎敵他                               Chẩm địch tha,   
晚來風?                      Vãn lai phong cấp?
雁過也,                              Nhạn quá dã,
傷心,                              Chính thương tâm,
却是舊時相.                   Khước thị cựu thời tương thức.

滿地黃花堆.                   Mãn địa hoàng hoa đôi tích.
憔悴損,                              Tiều tụy tổn,
如今有誰堪?                  Như kim hữu thùy kham trích?
守著窗兒,                          Thủ trước song nhi,     
獨自怎生得?                  Độc tự chẩm sinh đắc hắc?
梧桐更兼細雨,                   Ngô đồng cánh kiêm tế vũ,
到黃昏,                              Đáo hoàng hôn
點點滴.                             Điểm điểm trích trích.
這次第,                              Giá thứ đệ,
怎一箇 愁字了!              Chẩm nhất cá sầu tự liễu đắc!
Chú Thích
1- Thanh thanh mạn: tên từ điệu gồm 97 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn có 5 trắc vận (các tác giả khác hay dùng bình vận).
2- Tầm mịch尋覓: tìm kiếm
3- Thê, thảm, thích淒慘戚: ưu sầu khổ sở.
4- Sạ noãn hoàn hàn :乍暖還寒:  chợt ấm chợt lạnh. Tối = rất, bản khác chép chính= chính.
5- Tương tức將息: nghỉ ngơi.
6- Địch : đối phó
7- Vãn: buổi tối, bản khác chép hiểu = buổi sáng.
8- Tiều tụy tổn憔悴損: rất tiều tụy.
9- Kham: có thể.
10- Trứ = trước = trợ động từ trợ nghĩa cho động từ “thủ”. Thủ trước = giữ lấy, ôm lấy…
11- Chẩm sinh怎生: thế nào? Chữ sinh dùng làm trợ từ.
12- Ngô đồng cánh kiêm tế vũ梧桐更兼細雨: mượn ý 1 câu thơ của Bạch Cư Dị trong bài Trường Hận Ca; “Thu vũ ngô đồng diệp lạc thời”= lá ngô đồng rụng lúc mưa thu.
13- Giá thứ đệ這次第 =giá quang cảnh 这光景:quang cảnh này, tình hình này.
14- Chẩm nhất cá sầu tự liễu đắc怎一箇 愁字了得: chỉ 1 chữ sầu sao có thể nói ra hết?

Dịch Nghĩa
Thanh thanh mạn của Lý Thanh Chiếu
Tìm tìm kiếm kiếm
Lạnh lạnh thanh thanh
Thê thảm buồn rầu
Chợt ấm chợt lạnh
Thời tiết rất khó nghỉ ngơi
Đôi ba chén rượu nhạt
Làm sao chống được lúc đêm về gió gắt
Nhạn bay đi qua
Chính lúc thương tâm
Thành ra là việc đã biết từ trước
Đầy đất hoa vàng chất đống
Rất tiều tụy
Bây giờ có ai chịu hái hoa
Giữ song cửa sổ
Một mình thế nào mà (trời đã) tối đen.
Cây ngô đồng lại thêm mưa nhỏ
Đến hoàng hôn
Từng giọt nước rơi.
Quang cảnh này,
Dùng một chữ “sầu” làm sao có thể nói rõ hết được.

Phỏng Dịch
Tìm tìm kiếm kiếm,
Lạnh lạnh thanh thanh.
Sầu sầu muộn muộn,
Ấm lạnh loanh quanh.

Thời tiết khó nghỉ ngơi,
Đôi ba chén rượu nhạt.
Chống chỏi khá chơi vơi,
Lúc đêm về gió gắt.

Đàn nhạn vừa bay qua,
Thương tâm đang thấm hòa.
Chuyện xưa từng biết đến,
Ngập đất đầy hoàng hoa.

Hoa chất chồng tiều tụy,
Hái hoa ý lụn tàn.
Một mình ôm cửa sổ,
Bóng tối về tràn lan.

Ngô đồng mưa bụi phủ,
Chiều đến giọt buồn nhỏ.
Cảnh sắc thê lương này,
Chữ sầu không nói đủ.

HHD

Tuesday, November 7, 2017

Túy Hoa Âm - Lý Thanh Chiếu

醉花陰 - 李清照     Túy Hoa Âm  -  Lý Thanh Chiếu

薄霧濃雲愁永     Bạc vụ nùng vân sầu vĩnh trú,
瑞腦消金            Thụy não tiêu kim thú.
佳節又重陽,            Giai tiết hựu trùng dương,
玉枕紗廚,                Ngọc chẩm sa trù,
半夜涼初             Bán dạ lương sơ thấu.

東籬把酒黃昏      Đông ly bả tửu hoàng hôn hậu,
有暗香盈             Hữu ám hương doanh tụ.
莫道不消魂?             Mạc đạo bất tiêu hồn?
簾卷西風,                 Liêm quyển tây phong,
人比黃花             Nhân tỷ hoàng hoa sấu.

Chú Thích
1- Túy hoa âm 醉花陰: tên từ điệu, 52 chữ, gồm 2 đoạn, mỗi đoạn 5 câu có 3 trắc vận. Cách luật:

 

X T X B B T T vận

X T B B T vận

X T T B B cú

X T B B cú

X T B B T vận

 

X B X T B B T vận

T T B B T vận

X T T B B cú

X T B B cú

X T B B T vận

 

X: Bất luận; T: thanh trắc; B: thanh bằng; cú: hết câu; vận: vần 

2- Vân : mây, bản khác chép phân : mùi thơm hay âm : bóng râm.
3- Vĩnh trú 永晝: ngày dài. Sầu vĩnh trú 愁永晝: nỗi buồn khó tiêu trừ khiến cho mình cảm thấy ngày quá dài.
4- Thụy não 瑞腦: còn gọi là long não , băng phiến 冰片= chất thơm.
5- Tiêu : tan ra, tiêu mất, bản khác chép tiêu : nung chẩy, tan ra, hoặc phún : phun ra.
6- Kim thú 金獸: lư đồng đúc thành hình con thú.
7- Trùng dương 重陽: Ngày 9 tháng 9 âm lịch là  tiết Trùng cửu (2 số 9) hay tiết Trùng dương (theo dịch kinh, ngày này nhật nguyệt đều có dương số nên gọi là trùng dương). Tên khác là Đăng cao tiết 登高節, Cúc hoa tiết 菊花節....
8- Sa trù 紗廚 = sa trù 紗幮: màn lụa.
9- Lương : mát, hơi mát,  bản khác chép thu : mùa thu.
10- Đông ly 東籬: Do câu thơ của Đào Uyên Minh 陶渊明: “Thải cúc đông ly hạ, Du du kiến Nam sơn 采菊东篱下,悠悠见南山 = dưới khóm cúc mầu ở hàng rào phía đông, mờ mờ thấy núi Nam sơn” nên các thi nhân  quen dùng chữ “Đông ly” để chỉ hoa cúc trồng ở hàng rào.
11- Ám hương 暗香: mùi thơm nhẹ nhàng (của hoa cúc).
12- Doanh tụ 盈袖: đầy tay áo.
13- Tiêu hồn 消魂: tan hồn, hình dung buồn thương cực độ. Bài Biệt phú 别赋 của Giang Yêm 江淹 thời Nam Triều 南朝 có  câuẢm nhiên tiêu hồn giả, duy biệt nhi dĩ hỉ 黯然销魂者,惟别而已矣 = tan hồn buồn thảm thì chỉ do sự xa cách mà thôi." Ở chỗ này bà Lý Thanh Chiếu muốn nói lòng buồn thảm vì chồng đi công tác xa nhà.
14- Liêm quyển tây phong 簾卷西風: gió thu thổi lay động rèm, màn cửa.
15 Tỷ (tỉ, bỉ) : so với,  bản khác chép tự: giống như.
16- Hoàng hoa 黃花 = hoàng vàng = hoa cúc vàng.

Dịch Nghĩa
Sương mỏng mây dầy buồn suốt buổi.
Long não tan chẩy trong lư đồng hình con thú
Lại tiết đẹp trùng dương
Gối ngọc màn lụa
Mửa đêm hơi mát mới xuyên thấu

Sau hoàng hôn uống rượu cạnh khóm cúc ở hàng rào.
Có mùi thơm thoảng đầy tay áo.
Chớ nói không tiêu hồn.
Gió thu thổi phất phơ màn cửa.
Người gầy hơn hoa vàng.


Phỏng Dịch

1 Túy Hoa Âm – Thu Cô Đơn

 

Sương mỏng mây dầy sầu suốt buổi.

Thụy não lư đồng chảy.

Tiết đẹp lại trùng dương,

Gối ngọc màn tơ,

Hơi lạnh đêm xuyên tới.

 

Dậu đông nâng rượu sau chiều tối.

Tay áo hương thơm vợi.

Chớ nói chẳng tiêu hồn,

Cuốn gió màn thu,

Gầy sánh hoa vàng bội.

 

2 Thu Cô Đơn


Làn sương giăng mỏng áng mây dầy
Ảm đạm ngày dài buồn lất lây.
Hình thú lư đồng nung thụy não.
Trùng dương tiết đẹp cảnh hây hây.

Gối màn ngọc lụa thu xuyên thấu,
Chiều đến nâng ly bên cúc vàng.
Thoang thoảng u hương đầy vạt áo,
Cảnh buồn chớ tưởng hồn không tan.

Phất phơ màn cuốn thu phong,
Thân gầy hoa cúc hận lòng biệt ly.

HHD 10-2017

Túy Hoa Âm- Lý Thanh Chiếu
1_
Sương mỏng mây dầy sầu muôn thuở.
Băng phiến tan, lư thú
Lại tiết đẹp trùng dương
Gối ngọc, rèm là
Nửa đêm hơi mát thấu

Rào cúc chiều buông nâng chén rượu
Hương thơm đầy tay áo
Chớ nói chẳng tiêu hồn
Rèm cuốn gió tây.
Người gầy hơn hoa rũ
2_
Sương mỏng mây dầy buồn muôn thuở.
Chẩy tan long não trong lư thú
Trùng dương tiết đẹp, gối rèm sang
Hơi mát nửa đêm tràn xuyên thấu.

Rào cúc chiều buông chén rượu say
Cảnh tiêu hồn, hương đầy tay áo
Phất phơ rèm cản gió tây
Hoa vàng so với thân gầy khác chi!
Lộc Bắc
Jul2018




Sunday, November 5, 2017

Hồng Lâu mộng 紅樓夢

Friday, November 3, 2017

Như Mộng Lệnh - Lý Thanh Chiếu

如夢令  -  李清照    Như Mộng Lệnh  -  Lý Thanh Chiếu

昨夜雨疏風驟,     Tạc dạ vũ sơ phong sậu,
濃睡不消殘酒。     Nùng thụy bất tiêu tàn tửu.
試問捲簾人,         Thí vấn quyển liêm nhân,
卻道海棠依舊。     Khước đạo hải đường y cựu.
知否?                       Tri phủ?
知否?                     Tri phủ? 
應是綠肥紅瘦。     Ưng thị lục phì hồng sấu.

Chú Thích
1- Như mộng lệnh 如梦令: tên từ điệu, còn có tên khác là Ức tiên tư “忆仙姿”hay Yến đào nguyên“宴桃源”, gồm 33 chữ, 5 trắc vận, 1 điệp vận 叠韵. Cách luật:

X  T  X  B  X  T  v
X  T  X  B  X  T  v
X  T  T  B  B 
X  T  X  B  X  T  v
X  T  v  
X  T đv
X  T  X  B  X  T  v

X: bất luận;   T: trắc thanh;  B: bằng thanh;  v: vận;  đv: điệp vận

2- Vũ sơ 雨疏: mưa lơ thơ.
3- Phong sậu 風驟: gió mạnh.
4- Nùng thụy 濃睡: ngủ say.
5- Tàn tửu 殘酒: hơi rượu còn dư lại, vẫn còn say rượu.
6- Quyển liêm nhân 捲簾人: người cuốn rèm, người thị nữ.
7- Ưng thị 應是: nên phải là.
8- Lục phì hồng sấu 綠肥紅瘦: mầu lục thì béo, mầu hồng thì gầy, ý nói lá xanh nhiều, hoa đã tàn.

Dịch Nghĩa
Hôm qua mưa lưa thưa (nhưng) gió mạnh,
Ngủ say vùi (mà cảm thấy) vẫn còn say rượu.
Thử hỏi người đang cuốm rèm (xem vườn hoa ra sao),
Lại nói hoa hải đường như cũ.
Biết không? 
Biết không?
(Thời tiết này thì) lá cây phải xanh thắm (nhưng) hoa thì tàn tạ.

Phỏng Dịch

1 Như Mộng Lệnh - Hải Đường Đêm Mưa

 

Đêm trước mưa thưa gió hú.

Mùi rượu không tiêu vùi ngủ.

Thử hỏi bé người hầu,

Lại nói hải đường như cũ.

Biết chứ?

Biết chứ?

Lẽ phải lá nhiều hoa rũ.

 

2 Hải Đường Đêm Mưa


Đêm qua mưa bụi gió càn,
Li bì giấc ngủ rượu tàn còn say.
Hỏi người rèm cuốn, cho hay:
Hải đường hoa nở sáng ngày như xưa.
Biết chăng? lá thắm hoa thưa!

HHD 11 - 2017

NHƯ MỘNG LỆNH
Đêm trước mưa hờ, gió dữ
Ngủ thiếp cơn say còn đó
Ướm hỏi kẻ trông rèm

Nói trớ hải đường nở rộ
Chẳng nhẽ? chẳng nhẽ?
Theo lệ lá tươi, hoa rũ!!
Lộc Bắc

Jun2018

Wednesday, November 1, 2017

Bồ Tát Man - Án Kỷ Đạo

菩薩蠻 - 晏幾道     Bồ Tát Man  - Án Kỷ Đạo

 

哀箏一弄湘江     Ai tranh nhất lộng Tương giang khúc,

聲聲寫盡湘波     Thanh thanh tả tận tương ba lục.

纖指十三             Tiêm chỉ thập tam huyền,    

細將幽恨             Tế tương u hận truyền.

 

當筵秋水             Đương diên thu thủy mạn,

玉柱斜飛             Ngọc trụ tà phi nhạn.

彈到斷腸             Đàn đáo đoạn trường thì,

春山眉黛             Xuân sơn mi đại đê.

 

Chú Thích

1- Bồ tát man 菩薩蠻= Bồ tát man 菩薩鬘: Vốn là bài nhạc của Đường giáo phường, sau dùng làm từ bài. Tên khác là “Tử dạ ca 子夜歌”, “Trùng điệp kim 重疊金” v.v. Bài từ này có 44 chữ, đoạn trước và đoạn sau đều có 4 câu, 2 trắc vận và 2 bình vận. Cách luật:

 

 X  B  X  T  B  B  T (vận),

B  B  T  T  B  B  T (vận).

T  T  T  B  B (đổi vận),

T  B  B  T  B (vận).

 

X  B  B  T  T (đổi vận),

X  T  B  B  T (vận).

X  T  T  B  B (đổi vận),

X  B  X  T  B (vận).

 

X = bất luận; B = bình thanh; T = trắc thanh, vận = vần.

 

2- Ai tranh 哀箏: tiếng đàn tranh nghe buồn bã.

3- Lộng : Chơi 1 khúc nhạc như gẩy đàn, thổi sáo…

4- Tương giang khúc 湘江曲: Tức là bài Tương giang oán 湘江怨 hay Tương phi 湘妃怨 hay Tương phi lệ 湘妃淚, một bản nhạc cổ nổi tiếng của TH thời xưa nói về sự tích 2 vị cung phi của vua Thuấn tuẫn tiết ở sông Tương giang khi nghe tin vua Thuấn băng hà. 

5- Tương ba 湘波: sóng trên sông Tương.

6- Tiêm chỉ 纖指: ngón tay thon nhỏ.

7- Thập tam huyền十三弦: Đàn tranh cổ có 13 dây.

8- Tế tương u hận truyền 細將幽恨傳: câu này có thể hiểu là "Tương u hận tế truyền" = đem chuyện u hận ngày xưa (2 vị phi của vua Thuấn tuẫn tiết) tỉ mỉ phát tán ra, nói rõ ra, truyền ra.

9- Đương diên 當筵: ngay trong bữa tiệc rượu. Diên=chiếu tre.

10- Thu thủy秋水: ví với ánh mắt của nữ giới, trong vắt như nước mùa thu.

11- Mạn: =chậm, thong thả hay = tràn lan, chan hòa; Trong bài này đều có nghĩa là ngưng thần chú thị.

12- Ngọc trụ 玉柱hay nhạn trụ 雁柱: dụng cụ chế bằng tre hay gỗ để căng dây đàn, đầu trên chống vào dây đàn, 2 chân ở đầu kia đứng trên cây đàn trông giống như hình 1 con chim nhạn dang cánh. Cây đàn có 13 dây thì có 13 cây trụ xếp nghiêng trông giống như 1 đàn nhạn đang bay. Ngọc trụ là tiếng thường dùng trong văn chương cổ.

14- Đoạn trường: đau buồn, buồn bã. Đoạn trường thì: đến lúc buồn bã.

15- Xuân sơn: sách Tây Lương Tạp Ký 西京雜記của tác giả Lưu Hâm 劉歆 đời Tây Hán 西漢, quyển 2 viết: Trác Văn Quân 卓文君 xinh đẹp, mi sắc như vọng viễn sơn眉色如望遠山. Từ đấy về sau văn chương ví đôi lông mày của mỹ nhân như dãy núi mùa xuân.

16- Mi Đại 眉黛: Đại có nghĩa là phẩm mầu xanh đen của phụ nữ dùng vẽ lông mày vì vậy văn chương gọi lông mày phụ nữ hay gọi chung giới nữ lưu là "mi đại" hay "phấn đại". 4 chữ xuân sơn mi đại là chỉ đôi chân mày người đẹp.

 

Dịch Nghĩa

Đàn tranh buồn gẩy bài tương giang khúc,

Từng tiếng tả hết sóng xanh sông Tương.

Ngón tay thon nhỏ (gẩy) mười ba dây,

(Tới đây đã thấy người gẩy đàn là nữ giớí)

Đem mối u hận xưa truyền đạt ra.

Trên chiếu (tiệc rượu) ánh mắt (người đẹp) chăm chú.

(Lại biết thêm người gẩy đàn được thuê đến để giúp vui)

Những cây trụ ngọc như đàn nhạn đang bay.

Đàn đến lúc (nghe) não lòng,

Đôi chân mày (của mỹ nhân) hạ thấp xuống.

(Người cũng buồn theo tiếng đàn)

 

Phỏng Dịch 

1 Bồ Tát Man – Tương Giang Oán

 

Đàn tranh buồn gẩy Tương giang khúc,

Thanh thanh tả hết sóng Tương lục.

Tay nắn mười ba dây,

U tình kể lể đầy.

 

Chiếu hoa đọng thu thủy,

Bầy nhạn bay ngọc trụ.

Khúc nhạc lúc buồn lòng, 

Làn mi xanh nhẹ buông.

 

2 Tương Giang Oán

Tranh buồn gẩy khúc Tương giang,

Thanh thanh tả hết vạn ngàn sóng xanh.

Mười ba dây dạo ngón xinh,

Tiếng đàn kể lể ngọn ngành hận xưa.

Chiếu hoa thu thủy thẫn thờ,

Nghiêng nghiêng trụ ngọc mơ hồ nhạn bay.

Khúc đàn áo não lòng này,

Xuân sơn buông nhẹ chân mày xanh xanh.

 

HHD 11-2017

 

Bản Dịch của Lộc Bắc

 

TƯƠNG GIANG OÁN.

(1)

Đàn tranh buồn gảy Tương giang khúc

Từng thanh tả hết sóng xanh giục

Tay nhỏ mười ba dây

Đem u hận giãi bầy

Chiếu hoa mắt chăm chú

Nhạn bay như ngọc trụ

Đàn đến khúc đoạn trường

Mi hạ thấp bi thương

 

(2)

Đàn buồn gảy khúc Tương giang

Từng thanh lột tả sóng tràn nhuốm mây

Tay thon nắn nót từng giây

Cố đem u hận giải bầy tấc gang

Mắt huyền trên chiếu đa đoan

Dõi theo bầy nhạn, trụ đàn ngọc hương

Đàn cho đến lúc đoạn trường

Xuân sơn mi thấp bi thương não nề!

Lộc Bắc

July2018