Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Friday, October 4, 2019

Võ Lăng Xuân - Lý Thanh Chiếu

武陵春 - 李清照 Võ Lăng Xuân – Lý Thanh Chiếu
春晚                              Xuân Vãn

風住塵香花已盡,     Phong trú trần hương hoa dĩ tận,
日晚倦梳             Nhật vãn quyện sơ đầu.
物是人非事事     Vật thị nhân phi sự sự hưu,
欲語淚先             Dục ngữ lệ tiên lưu.

聞說雙溪春尚好,     Văn thuyết song khê xuân thượng hảo,
也擬泛輕             Dã nghĩ phiếm khinh châu.
只恐雙溪舴艋     Chỉ khủng song khê trách mãnh châu,
載不動許多         Tái bất động hứa đa sầu.

Chú Thích
1 Võ Lăng xuân 武陵春: tên từ điệu, tên khác là võ lâm xuân  武林春, gồm 2 đoạn, tổng cộng 49 chữ. Cách luật:

 

B T B B B T T cú

T T T B B vận

T T B B T T B vận

T T T B B vận

 

B T B B B T T cú

T T T B B vận

T T B B T T B vận

T T T, T B B vận

 B: bình thanh; T: trắc thanh; cú: hết câu; vận: vần.

2 Trần hương 塵香: đất thơm, hoa tàn rơi xuống đất, chỗ đất ấy cũng nhiễm mùi thơm của hoa.
3 Hoa dĩ tận 花已盡: hoa đã hết. Bản khác chépxuân dĩ tận 春已盡: xuân đã hết.
4 Nhật vãn 日晚: ngày muộn. Bản khác chép nhật lạc 日落: ngày rơi hay nhật hiểu 日曉: ngày sớm.
5 Sơ đầu : chải đầu, trang điểm.
6 Vật thị nhân phi 物是人非: trích dẫn 1 câu nói của Tào Phi 曹丕 thời Tam Quốc 三國 có nghĩa là sự vật vẫn như xưa nhưng người thì đã thay đổi (người xưa không còn nữa).
7 Sự sự hưu 事事休: mọi việc đều hết.
8 Lệ tiên lưu 淚先: nước mắt rơi trước. Bản khác chép lệ châu lưu 淚珠: giọt lệ rơi.
8 Văn thuyết 聞說: nghe nói. Bản khác chép văn đạo 聞道: nghe rằng.
9 Song khê 雙溪: tên suối ở thành Kim Hoa tỉnh Chiết giang, TH, có Đông cảng 東港 và Nam cảng 南港 2 dòng nước vì vậy gọi là Song khê.
10 Xuân thượng hảo 春尚好: xuân còn đẹp. Bản khác chép xuân hướng hảo 春向好: mùa xuân đẹp.
11 Nghĩ : suy nghĩ, tính toán. Dã nghĩ 也擬 = dã tưởng 也想: cũng tưởng rằng, cũng tính rằng.
12 Khinh châu 輕舟: thuyền nhẹ. Bản khác chép thiên châu 扁舟: thuyền con.
13 Trách mãnh 舴艋: một loại thuyền nhỏ đầu nhọn như đầu con châu chấu”trách mãnh 蚱蜢”.
14 Tái (tải) : chở, chuyên chở.

Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu Võ Lăng Xuân của Lý Thanh Chiếu.
Xuân Muộn
Gió đã ngừng, hoa rụng đã nhiễm mùi thơm vào đất, nay hoa đã rụng hết,
Ngày đã muộn, chán nản không muốn trang điểm.
Sự vật, thời gian xoay chuyển vẫn nhữ cũ nhưng con người thì đã thay đổi (người còn, người mất). Mọi sự đều tàn (đối với tôi).
Muốn nói lên điều gì (điều đã làm tôi thương tâm thống khổ) thì lệ đã ràn rụa.

Nghe nói ở thắng cảnh Song Khê, mùa xuân vẫn còn đẹp,
Cũng muốn đến đó bơi thuyền để giải khuây,
Chỉ sợ chiếc thuyền con ở Song Khê,
Chở không nổi những ưu sầu trong lòng tôi.

Phỏng Dịch

1 Võ Lăng Xuân – Xuân Muộn

 

Ngừng gió hoa rơi hương nhiễm đất,

Biếng chải lúc chiều lan.

Cảnh cũ người không mọi việc tàn.

Muốn nói lệ tuôn tràn.

 

Nghe nói Song Khê xuân vẫn đẹp,

Cũng muốn cưỡi thuyền sang.

Chỉ sợ thuyền con quá nhẹ nhàng.

Khó chở hết, những sầu mang.

 

2 Xuân Muộn


Gió ngừng hoa rụng nhiễm trần hương,
Ngày muộn điểm trang sao chán chường.
Người mất vật còn đời đã hết,
Lời nào chưa nói lệ sầu thương.


Nghe nói Song Khê xuân vẫn đẹp,
Tưởng chèo thuyền lá bớt cơn sầu.
Sợ rằng nơi đó thuyền nho nhỏ,
Không chở tận cùng những nỗi đau.

HHD 10-2019




Monday, September 30, 2019

Ngọc Lâu Xuân - Chu Bang Ngạn

玉樓春 - 周邦彥  Ngọc Lâu Xuân – Chu Bang Ngạn

桃溪不作從容Đào khê bất tác thung dung trú.
秋藉絕來無續Thu ngẫu tuyệt lai vô tục xứ.
當時相候赤欄橋,Đương thời tương hậu xích lan kiều,
今日獨尋黃葉Kim nhật độc tầm hoàng diệp lộ.

煙中列岫青無Yên trung liệt tụ thanh vô số.
雁背夕陽紅欲Nhạn bối tịch dương hồng dục mộ.
人如風後入江雲,Nhân như phong hậu nhập giang vân,
情似雨餘黏地Tình tự vũ dư niêm địa nhứ.

Chú Thích

1 Ngọc Lâu Xuân玉 樓春: tên từ điệu, tên khác là mộc lan hoa 木蘭花, xuân hiểu khúc 春曉曲, tây hồ khúc 西湖曲, tích xuân dung 惜春容, quy triều hoan lệnh 歸朝歡令, Trình tiêm thủ 呈纖手, quy phong tiện 歸風便, đông lân diệu 東鄰妙, mộng hương thân 夢鄉親, tục ngư ca 續渔歌. Bài này có 56 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn có 4 câu và 3 trắc vận. Suốt bài không thay đổi vận. Cách luật: 

X  B  X  T  B  B  T vận

B  T  X  B  B  T  T vận

X  B  B  T  T  B  B cú

B  T  X  B  B  T  T vận

 

X  B  X  T  B  B  T vận

T  T  X  B  B  T  T vận

B  B  B  T  T  B  B cú

X  T  T  B  B  T  T vận


T: trắc thanh; B: bình thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

2 Đào khê 桃溪: ám chỉ tiên cảnh nơi Lư Thần Nguyễn Triệu lạc vào thiên thai. Vì trên núi có cây đào, dưới chân núi có dòng suối nên gọi là “Đào khê”.

3 Thung dung 從容: không hoang mang, thong thả trấn tĩnh.
4 Thu ngẫu 秋藕: củ sen, lấy vào mùa thu nên gọi là thu ngẫu.
5 Xích lan kiều 赤闌橋: cây cầu có thành cầu là lan can sơn mầu đỏ. Chữ này đã đi vào văn chương cổ TH mà nhiều thi sĩ từ gia đã nhắc đến trong sắc cảnh mùa xuân.
6 Hoàng diệp lộ 黃葉路: con đường đầy lá vàng rơi, chỉ sắc cảnh mùa thu.
7 Liệt tụ 列岫: cảnh 1 dẫy núi sừng sững trước mắt.
8 Nhạn bối 雁背: nhạn bay ngược chiều với…
9 Tịch dương 夕陽: mặt trời lúc buổi chiều.
10 Phong hậu 風後: sau cơn gió.
11 Giang vân 江雲: mây trên vòm trời của con sông.
12 Vũ dư 雨餘: sau cơn mưa.
13 Niêm địa 黏地: dính vào đất.
14 Nhứ : nhánh liễu.


Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu ngọc lâu xuân của Chu Bang Ngạn.
Suối đào khê trôi chẩy không để cho người được ung dung ở lại,
Ngẫu sen mùa thu sau khi bẻ gẫy không có chỗ nào nối nhau.
Nhớ lại lúc trước chờ đợi nhau trên xích lan kiều,
Hôm nay một mình bồi hồi tại con đường phủ lá vàng.

Sương khói bao phủ dẫy núi, những điểm mầu xanh vô số,
Đàn nhạn bay ngược với ánh tịch dương mầu hồng lúc sắp chiều.
Nhân sinh như đám mây bay vào lưu vực con sông sau cơn gió,
Tình tự như nhánh liễu rơi dính xuống đất sau trận mưa.

Phỏng Dịch

1 Ngọc Lâu Xuân - Từ Biệt Thiên Thai

 

Trời tiên không thể ung dung trải.

Làm gẫy cành sen không chỗ nối.

Khi xưa chờ bạn góc cầu son,

Đường phủ lá vàng nay chốn đợi.

 

Khói sương núi lắm mầu xanh mới.

Cánh nhạn phơi chiều hồng chói lọi.

Người như tan gió nước mây ngàn,

Tình tựa lấm bùn mưa liễu gội.

 

2 Từ Biệt Thiên Thai


Không được ung dung ở suối đào,
Ngẫu sen thu gẫy tơ còn đâu.
Lúc xưa chờ đón cầu lan đỏ,
Ngập đất lá vàng nay nghẹn ngào

Sương phủ núi xa xanh lốm đốm,
Ráng hồng lưng nhạn bóng chiều lan.
Đời người gió lặng mây sông nước,
Tình tự mưa tan nhánh liễu tàn.

HHd 9-2019




Friday, September 27, 2019

Thanh Môn Dẫn - Trương Tiên


青門引 - 張先  Thanh Môn Dẫn – Trương tiên
春思。                       Xuân Tứ
乍暖還輕            Sạ noãn hoàn khinh lãnh.
風雨晚來方         Phong vũ vãn lai phương định.
庭軒寂寞近清明,     Đình hiên tịch mịch cận thanh minh,
殘花中酒,                Tàn hoa trung tửu,
又是去年             Hựu thị khứ niên bệnh.

樓頭畫角風吹     Lâu đầu họa giác phong xuy tỉnh.
入夜重門            Nhập dạ trùng môn tĩnh.
更被明月,         Na kham cánh bị minh nguyệt,
隔牆送過鞦韆     Cách tường tống quá thu thiên ảnh.

Chú Thích
1 Thanh môn dẫn青門引:  tên từ điệu với 52 chữ, đoạn trước và đoạn sau đều có 3 trắc vận. Cách luật:

 

T T B B T vận

B T T B B T vận

B B T T T B B cú

X B X T cú

T T T B T vận

 

B B T T B B T vận

T T B B T vận

T B T T B T cú

T B T T B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2 Xuân tứ 春思: ý xuân, cảnh sắc và thời tiết mùa xuân.

3 Sạ : chợt.

4 Vãn lai 晚來: đến tối.

5 Phương định 方定: mới ngừng.

6 Đình hiên 庭軒: đình viện 庭院, sân vườn, hành lang.

7 Thanh minh 清明: tiết thanh minh trong tháng 3 âm lịch.

8 Tàn hoa殘花: hoa tàn.

9 Trung tửu (zhōng jiǔ) 中酒: rượu uống ngà ngà không say không tỉnh, hoặc là “Trúng tửu (zhòng jiǔ) 中酒”: uống rượu say.

10 Tàn hoa trúng tửu 殘花中酒: lấy ý từ câu thơ của Đỗ Mục: “Tàn xuân Đỗ Lăng khách, Trúng tửu lạc hoa tiền 残春杜陵客, 中酒落花前: Người khách ở Đỗ Lăng (tác giả tự ví mình) lúc xuân tàn, say rượu (hoặc là say cảnh) trước đám hoa rơi.

11 Bệnh : tật bệnh (ý nói là bệnh tửu 病酒: tật uống rượu).

12 Lâu đầu 樓頭: lầu nhỏ trên thành để canh gác.

13 Họa giác 畫角: tù và dùng trong quân đội, vì làm bằng sừng súc vật lại có chạm trổ nên gọi là họa giác.

14 Trùng môn 重門: cửa sắt, cửa cung, 2 lần cửa.

15 Nả kham 那堪: sao chịu đựng được.

16 Cách tường 隔牆: cách vách, ý nói nhà bên cạnh.

17 Thu thiên 鞦韆: cái xích đu.


Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu thanh môn dẫn của Trương tiên.
Ý xuân.
Khí hậu chợt ấm áp nhưng vẫn còn hơi lạnh.
Gió mưa đến chiều tối mới ngưng.
Sân vưòn tịch mịch lúc gần tiết thanh minh,
Lúc này hoa đã tàn và mình đang say rượu,
Lại là cái tật (uống rượu) từ năm ngoái.

Tiếng tù và từ vọng gác trên thành và gió thổi làm mình tỉnh lại.
Trời đã về đêm, trong 2 lớp cửa yên tĩnh.
Sao chịu đựng được (cảnh tĩnh mịch này) lại thêm bị ánh trăng sáng…
Chiếu ảnh cái xích đu (1 thiếu nữ đang lắc lư) từ nhà bên đưa lại.

Phỏng Dịch

1 Thanh Môn dẫn – Ý Xuân

 

Chợt ấm còn hơi lạnh,

Mưa gió đến chiều vừa tạnh.

Sân vườn tịch mịch sắp thanh minh,

Hoa tàn say khướt,

Lại mắc năm xưa bệnh.

 

Tù và lầu các phong lay tỉnh.

Cửa kép vào đêm tĩnh.

Nản sao lại bị trăng sáng.

Cách tường đưa đến cây du ảnh.

 

2 Ý xuân

 

Chợt ấm còn hơi lạnh,

Gió mưa chiều đã tạnh.

Tịch mịch trong sân nhà,

Thanh minh đã đến cạnh.

 

Tàn xuân hoa rụng đầy,

Túy lúy nhìn hoa bay.

Cảnh tượng từ năm ngoái,

Vẫn mang cố tật say.

 

Vọng gác tù và vang,

Gió đưa tỉnh rượu tàn.

Đêm về trong cánh cổng,

Yên tĩnh sầu miên man.

 

Tâm hồn bao khắc khoải,

Trăng sáng thêm bi ai.

Cách vách bóng đưa lại,

Đơn côi võng đêm dài.

 

3 Ý Xuân

Tiết trời chợt ấm chợt chen lạnh,
Mưa gió chiều về vừa mới ngưng.
Gần đến Thanh minh vườn tĩnh mịch,
Hoa tàn, say rượu tật không đừng.

Tù và vọng gác, gió lay tỉnh,
Yên tĩnh vào đêm lớp cửa đôi.
Vắng lặng buồn tênh trong ánh nguyệt,
Nhà bên đưa bóng võng đơn côi.

HHD 9-2019

Bản Dịch của Lộc bắc

Thanh Môn Dẫn


1-     

Xuân ý

Chợt ấm còn hơi lạnh

Gió mưa chập tối mới tạnh

Sân vườn tịch mịch sắp thanh minh

Hoa tàn say khướt

Từ năm ngoái thành bệnh

 

Vọng gác, tù và, gió rít - tỉnh

Cửa kép, đêm yên tĩnh

Thêm sáng trăng sao kham nổi

Nhà bên chiếu qua xích đu ảnh

          

2-     

Ý xuân… chợt ấm còn hơi lạnh

Chập tối gió mưa vừa ngớt tạnh

Tịch mịch sân vườn sắp đạp thanh

Hoa tàn say khướt nay thành bệnh

 

Vọng gác, tù và, gió rít - tỉnh

Cửa vây, đêm vắng thật yên tĩnh

Sáng trăng soi rọi, thảy sao kham

Hàng xóm xích đu mờ chiếu ảnh

 

Lộc Bắc

Jul20

 

 



Thursday, September 26, 2019

Than Phá Hoán Khê Sa - Lý Cảnh


攤破浣溪沙 - 李璟  Than Phá Hoán Khê Sa – Lý Cảnh

菡萏香銷翠葉殘,     Hạm đạm hương tiêu thúy diệp tàn,
西風愁起綠波間。     Tây phong sầu khởi lục ba gian.
還與韶光共憔悴,     Hoàn dữ thiều quang cộng tiều tụy,
不堪看。                     Bất kham khan.

細雨夢迴雞塞遠,     Tế vũ mộng hồi kê tái viễn,
小樓吹徹玉笙寒。     Tiểu lâu xuy triệt ngọc sênh hàn.
多少淚珠何限恨,     Đa thiểu lệ châu hà hạn hận,
倚欄干。                     Ỷ lan can.

Chú Thích
1 Than phá hoán khê sa 攤破浣溪沙: tên từ điệu, còn có tên khác là Thiêm tự hoán khê sa 添字浣溪沙, Tiên hoa tử 山花子, Nam Đường hoán khê sa 南唐浣溪沙. Bài này có 2 đoạn tổng cộng 48 chữ và 5 bình vận. Câu đầu của đoạn trước là trắc khởi và áp vận bằng. Câu đầu của đoạn sau là trắc khởi và chữ cuối câu là thanh trắc. Câu đầu và câu thứ nhì của đoạn sau phải “đối trượng 對仗” (từng khổ đối nhau). Câu thứ 3 của đoạn trước và đoạn sau sẽ mở ra thành 2 câu. Vì vậy gọi là “Than phá”.
2 Hạm đạm (nảm) 菡萏: một tên khác của hoa sen.
3 Hương tiêu 香銷: hương thơm tiêu tán vì hoa đã tàn.
4 Thúy diệp 翠葉: lá biếc, lá xanh.
5 Tây phong 西風: gió thu.
6 Sầu khởi 愁起: nổi lên buồn bã vì lá hoa sen tàn.
7 Lục ba 綠波: sóng xanh, sóng lục. Gian: ở giữa, ở trong.
8 Thiều quang韶光: thời gian đẹp đẽ thường chỉ mùa xuân,
9 Tiều tụy 憔悴: gầy gò ốm yếu.
10 Bất kham 不堪: không chịu đựng được, không nỡ.
11 Tế vũ 細雨: mưa bụi.
12 Mộng hồi Kê Tái viễn 夢迴雞塞遠: nằm mơ thấy cảnh ở Kê Tái xa xôi.
13 Kê tái 雞塞: còn gọi là Kê lộc tái 雞鹿塞 hay Kê lộc sơn 雞祿山, nay ở tỉnh Thiểm Tây 陝西, Hoành sơn huyện 橫山縣, TH. Trong bài này chữ Kê tái phiếm chỉ biên thùy.
14 Xuy triệt : thổi (sênh) đến đoạn tận cùng của bài hát.
15 Ngọc sênh: cái sênh quý.
16 Hà hạn hận: vô cùng, vô hạn oán hận.
17 Ỷ: dựa, bản khác chép ký  gửi là không hợp nghĩa của toàn câu.    

Dịch Nghĩa
Hương của hoa sen đã mất, lá xanh đã tàn,
Gió thu nổi lên buồn bã giữa lớp sóng xanh lục.
Thời gian mỹ hảo đã trôi đi và mình cũng theo đó mà tiều tụy.
Không nhẫn tâm nhìn (những cảnh tiều điều đó)

Trời mưa bụi, mình mộng đến anh ở nơi biến tái xa xăm.
Từ căn lầu nhỏ nghe tiếng sênh lạnh lẽo thổi hết bài ca.
(Nghĩ đến chuyện xưa) giọt lệ chan hòa, mối u hận vô cùng tận,
(Trong lúc) đứng dựa lan can.

Phỏng Dịch

Than Phá Hoán Khê Sa - Thu Tàn

Sen thắm hương tan lá biếc tàn,
Sóng xanh buồn bã gió thu sang.
Tuổi xuân đã mất thân tiều tụy,
Thấy không đang.

Mưa bụi mộng về biên tái thẳm,
Lầu con nghe hết điệu sênh hàn.
Giọt lệ chan hòa vô hạn hận,
Dựa lan can.

HHD 9-2019

Bồ Tát Man - Mao Hy Chấn

菩薩蠻 - 毛熙震  Bồ Tát Man – Mao Hy Chấn

繡簾高軸臨塘     Tú liêm cao trục lâm đường khán,
雨翻荷芰真珠     Vũ phiên hà kị chân châu tán.
殘暑晚初             Tàn thử vãn sơ lương,
輕風渡水             Khinh phong độ thủy hương.

無聊悲往             Vô liêu bi vãng sự,
怎奈牽情             Chẩm nại khiên tình tứ.
光景暗相             Quang cảnh ám tương thôi,
等閒秋又             Đẳng nhàn thu hựu lai.

Chú Thích
1 Bồ tát man 菩薩蠻: tên từ điệu.
2 Tú liêm: màn thêu.
3 Trục 軸 = liêm trục : cái trục để cuốn màn lên hạ màn xuống, cao trục 高軸: cuốn cao lên.
4 Lâm : đến.
5 Đường : ao, hồ.
6 Phiên đổ xuống.
7 Hà kị: cây sen và cây ấu.
7 Chân châu 真珠 = trân châu 珍珠: ngọc trai.
8 Tàn thử 殘暑: hết mùa hè.
9 Vô liêu 無聊: chán nản, không có gì vui.
10 Chẩm nại 怎奈: sao phải chịu, sao chịu được.
11 Khiên : dắt tới, đưa tới, liên lụy tới.
12 Tình tứ 情思: tình ý.
13 Quang cảnh 光景 = thời quang 時光 thời gian.
14 Ám : ngầm.
15 Tương thôi 相催: giục giã, hối thúc.
16 Đẳng nhàn 等閒: Thờ ơ, khinh dị, tùy tiện, bình thường.

Dịch Nghĩa
Màn thêu cuốn cao lên, đến bên hồ xem, (màn hay rèm  cửa sổ trên xe ngựa)
Mưa đổ lên lá sen lá ấu thành những hạt trân châu tán loạn.
Mùa hè đã hết, buổi chiều bắt đầu mát,
Gió nhẹ thổi hương thơm qua mặt nước.
Chán nản buồn vì chuyện xưa,
Sao còn vấn vương tình ý?
Thời gian ngầm giục giã,
Nhẹ nhàng thu lại đến.

Phỏng Dịch

Bồ Tát Man - Chiều Thu

Cuốn cao màn vẽ đến hồ ngắm,
Lá sen mưa đổ ngọc trai thắm.
Chiều mát mẻ hè tan,
Hương thơm nước gió mang.

Bâng khuâng buồn chuyện cũ,
Sao thiết tha tình tự?
Giục giã mầu thời gian,
Mùa thu đến ngỡ ngàng.

HHD 9-2019




Wednesday, September 25, 2019

Hoán Khê Sa - Trương Bí

浣溪沙 - 張泌 Hoán Khê Sa – Trương Bí

晚逐香車入鳳Vãn trục hương xa nhập phụng thành,
東風斜揭繡簾Đông phong tà yết tú liêm khinh,
慢回嬌眼笑盈Mạn hồi kiều nhãn tiếu doanh doanh.

消息未通何計是,Tiêu tức vị thông hà kế thị,
便須佯醉且隨Tiện tu dương túy thả tùy hành,
依稀聞道太狂Y hy văn đạo thái cuồng sinh.

Chú Thích
1- Hoán khê sa 浣溪沙: tên từ điệu. Chữ hoán còn đọc là “hoãn” theo sách của ông Trần Trọng San.
2- Vãn : buổi chiều, tối.
3- Trục : đuổi, đuổi theo, đi theo, theo đuổi.
4- Hương xa 香車: xe đẹp đẽ lộng lẫy.
5- Phụng thành 鳳城: kinh đô.
6- Đông phong 東風: gió xuân.
7- Tà yết 斜揭: nhẹ nâng lên.
8- Tú liêm 繡簾: màn thêu.
9- Mạn hồi 慢回: bình thản quay lại nhìn.
10- Kiều nhãn 嬌眼: đôi mắt đẹp.
11- Doanh doanh 盈盈: tươi tắn, xinh đẹp, thướt tha, yểu điệu.
12- Tiêu tức vị thông 消息未通 hay tấn tức vị thông 訊息未通: chưa biết rõ ý tứ (của người trong xe).
13- Tiện tu 便須: nên, phải, bèn.
14- Dương túy 佯醉: giả vờ say.
15- Thả : hãy, hãy thế, hãy thử.
16- Tùy hành 隨行: đi theo.
17- Y hy 依稀: lờ mờ, hình như, phảng phất.
18- Thái cuồng sinh 太狂生: khùng quá (chữ sinh dùng làm trợ từ trong ngôn ngữ TH thời Đường, Tống).

Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu hoán khê sa của Trương Bí.
Lúc buổi chiều, (mình) theo đuổi 1 chiếc xe lộng lẫy đi vào kinh thành,
Trận gió đông thổi đến, nhẹ nâng tấm màn thêu che cửa lên,
Nàng thong thả quay đầu lại nhìn, cười tươi tắn.

Chưa biết được ý tứ của cô nàng này thế nào để mình có cách gì đeo đuổi nàng,
Bèn giả vờ say, hãy thử đi theo,
Phảng phất nghe có tiếng nói rằng “Khùng quá”.

Phỏng Dịch

Hoán Khê Sa

Chiều đến theo xe vào thủ đô,
Gió xuân thổi nhẹ vén màn hoa,
Liếc đôi mắt đẹp cười hài hòa.

Không hiểu ý tình sao biết kế?
Bèn vờ say rượu bước theo bừa,
Lờ mờ nghe tiếng nói khùng chưa!

HHD 9-2019