Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Wednesday, June 30, 2021

Mãn Đình Phương - Tô Thức

滿庭芳 - 蘇軾   Mãn Đình Phương – Tô Thức

 

元豐七年四月一日,余將去黃移汝,留別雪堂鄰里二三君子,會仲覽自江東來別,遂書以遺之。

Nguyên Phong thất niên tứ nguyệt nhất nhật, dư tương khứ Hoàng di nhữ, lưu biệt tuyết đường lân lý nhị tam quân tử, hội Trọng Lãm tự Giang đông lai biệt, toại thư dĩ di chi.

 

歸去來兮,                 Quy khứ lai hề,

吾歸何處,                 Ngô quy hà xứ,

萬里家在岷         Vạn lý gia tại Mân Nga.

百年強半,                 Bách niên cường bán,

來日苦無                 Lai nhật khổ vô đa.

坐見黃州再閏,         Tọa kiến Hoàng Châu tái nhuận,

兒童盡、楚語吳Nhi đồng tận, Sở ngữ Ngô ca.

山中友,                      Sơn trung hữu,

雞豚社酒,                 Kê đồn xã tửu,

相勸老東             Tương khuyến lão Đông Pha.

 

                          Vân hà.

當此去,                      Đương thử khứ,

人生底事,                 Nhân sinh để sự,

來往如                 Lai vãng như thoa.

待閑看,                      Đãi nhàn khán,

秋風洛水清         Thu phong Lạc thủy thanh ba.

好在堂前細柳,         Hảo tại đường tiền tế liễu,

應念我、莫翦柔Ưng niệm ngã, mạc tiễn nhu kha.

仍傳語,                      Nhưng truyền ngữ,

江南父老,                 Giang Nam phụ lão,

時與曬漁             Thời dữ sái ngư thoa.

 

Chú Thích

1- Mãn đình phương滿庭芳: tên từ bài, tên khác là “tỏa dương đài鎖陽臺”, “Trung lữ điệu中呂調”. Bài này có 95 chữ. Đoạn trước có 4 bình vận, đoạn sau có 5 bình vận. Cách luật:

 

X T B B cú

X B X T cú

X B X T B B vận

X B X T cú

X T T B B vận

X T X B X T cú

X X T, X T B B vận

X B T cú

X B X T cú

X T T B B vận

 

X B vận

B T T cú

X B X T cú

X T B B vận

T X X cú

X B X T B B vận

X T X B X T cú

X X T, X T B B vận

B B T cú

X B X T cú

X T T B B vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Nguyên Phong 元豐: niên hiệu của vua Tống Thần Tông 宋神宗.

3- Khứ Hoàng di Nhữ 去黃移汝: Bỏ Hoàng châu 黃州dời đến (nhiệm chức ở) Nhữ châu 汝州.

4- Tuyết đường雪堂: nhà ở của Tô Thức trên sườn đồi Đông Pha 東坡 ở Hoàng châu黃州.

5- Hội : vừa lúc.

6- Trọng Lãm 仲覽: tức là Lý Tường 李翔 tự là Trọng Lãm, bạn của tác giả.

7- Quy khứ lai 歸去來: hãy về ngay.

8- Mân nga 岷峨: Mân sơn 岷山 và Nga mi sơn 峨眉山 thuộc tỉnh Tứ Xuyên, TH, quê hương của tác giả.

9- Cường bán 強半 = đại bán 大半: hơn nửa, ám chỉ tuổi tác của tác giả (thực ra lúc đó Tô Thức mới 48 tuổi).

10- Lai nhật 來日: ngày sau, ngày sắp tới.

11- Tọa kiến 坐見: ngồi nhìn. Cũng có thể hiểu là thích kiến 適見: vừa đúng lúc trông thấy.

12- Tái nhuận 再閏: năm nhuận lần nữa. Tác giả ở Hoàng châu có 2 lần năm nhuận.

13- Nhi đồng tận 兒童盡: tất cả nhi đồng.

14- Sở ngữ ngô ca 楚語吳歌: bài ca của miền đất Ngô dùng thổ âm nước Sở. Nguyên Hoàng châu thuộc nước Sở cũ, trẻ con đều biết hát ca bằng tiếng nước Sở.

15- Xã tửu 社酒: rượu tế thần vào mùa xuân và mùa thu. Trong bài này, chữ xã tửu phiếm chỉ rượu.

16- Lão Đông Pha 老東坡: chỉ tác giả.

17- Vân hà 雲何 hay vân hà 云何: làm sao, làm thế nào, như thế nào, nói cái gì.

18- Để sự 底事 = hà sự 何事: việc gì, = thử sự 此事: việc này.

19- Toa (thoa) : con thoi trong khung cửi dệt vải.

20- Thu phong lạc thủy 秋風洛水: mùa thu ở sông Lạc thủy, Sự tích người Trương Hàn 張翰 đời Tây Tấn 西晉, làm quan ở Lạc Dương 洛陽. Một hôm khi gió thu nổi lên, nghĩ tới món ăn ở quê cũ là canh rau thuần  và cá lô 鱸魚 thái nhỏ. Ông bèn từ quan về quê quy ẩn. Thành ngữ “Thu phong lạc thủy” muốn nói lên cái chí về quê ẩn dật.

Cũng có người nói sông Lạc thủy thuộc vùng Nhữ châu, nhiệm sở mới của tác giả vì vậy chữ thu phong lạc thủy có ý chỉ cuộc đời tương lai sau khi rời Hoàng châu.

21- Nhu kha 柔柯: cành nhỏ, chỉ nhánh liễu. Mạc tiễn nhu kha 莫翦柔柯: chớ cắt cành mềm, ý nói hãy quý trọng tình bạn.

22- Giang nam phụ lão 江南父老: người già ở Giang nam, ám chỉ lân cư của tác giả.

23- Sái : phơi.

24- Ngư toa (thoa) 漁蓑: áo tơi của dân chài.

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của Tác giả: năm Nguyên Phong thứ 7, ngày mùng 1 tháng 4, tôi sắp bỏ Hoàng châu, dời đến Nhữ châu. Lúc ly biệt lưu lại “tuyết đường” cho dăm vị xóm giềng quân tử. Vừa lúc Trọng Lãm từ Giang Đông đến tiễn biệt. Bèn làm bài từ để lại.

 

Hãy về ngay,

Mình về chỗ nào,

Cố hương ở vùng núi Mân, núi Nga Mi xa ngàn dặm.

Đã quá nửa đời người,

Những ngày khổ về sau không nhiều.

Sống ở Hoàng châu trải qua 2 lần năm nhuận,

Các trẻ nhỏ đều hát ca bằng ngôn ngữ nước Sở.

Bạn bè trong vùng núi,

Làm tiệc rượu thịt gà thịt heo (tiễn đưa),

Khuyên nhủ tôi.

 

Nói gì nữa đây,

Đối với lần đi này.

Những việc trong đời,

Qua lại như con thoi trên khung cửi.

Chờ đợi (được) nhìn (năm tháng) nhàn hạ.

Xem sóng trong lành trên sông Lạc thủy dưới làn gió thu.

Tại những gốc liễu trước nhà (mà tôi đã trồng), (dặn dò bằng hữu)

Nên nhớ đến tôi, xin chớ chặt những cành mềm (chớ quên tình bằng hữu).

Còn dặn dò thêm,

Các vị phụ lão ở Giang Nam (tức các vị lân cư ở Hoàng Châu),

(Hãy) thường giúp phơi áo tơi của ngư dân.

(Tác giả tỏ ý lưu luyến Hoàng châu).

 

Phỏng Dịch


1 Mãn Đình Phương - Lời Giã Từ

 

Thôi hãy về ngay,

Mình về đâu đó,

Vạn dặm quê ở Mân Nga.

Trăm năm già nửa,

Ngày bớt khổ không xa.

Năm nhuận hai lần chốn ấy,

Đám con trẻ, hát khúc ngô ca.

Bạn trong núi,

Gà heo rượu quý,

Khuyên nhủ lão Đông Pha.

 

Sao mà,

Đi thế ấy,

Đời người tâm sự,

Khung cửi lại qua.

Ngóng xem nhàn,

Gió về Lạc thủy thu ba.

Trước nhà dăm cây liễu nhỏ,

Chớ cắt nhánh, hãy nhớ về ta.

Còn thêm nữa,

Xóm giềng phụ lão,

Phơi áo chống mưa sa.

 

2 Lời Giã Từ

 

Hãy về ngay nhé, chốn nào đây?

Quê cũ Mân Nga ngàn dặm đầy.

Đã quá nửa đời người vất vả,

Không còn khổ ải mai sau này.

 

Trải hai năm nhuận chốn Hoàng Châu,

Đàn trẻ đất Ngô hát Sở dao.

Bạn bè trong núi đãi cơm rượu,

Khuyên nhủ Đông Pha tình cảm sâu.

 

Còn nói gì đây, đi nữa rồi,

Con thoi khung cửi việc trên đời.

Mong đợi thanh nhàn sông Lạc thủy,

Gió thu gợn sóng ngắm mây trời.

 

Gốc liễu trước nhà, xin dặn lời,

Cành mềm chớ chặt, nhớ về tôi.

Xóm giềng phụ lão cũng nên nhớ,

Giúp đỡ ngư dân phơi áo tơi. 


HHD 02-2021


 

 

 

Mãn Giang Hồng - Tô Thức

滿江紅 -蘇軾   Mãn Giang Hồng – Tô Thức

 董毅夫名鉞,自梓漕得罪,罷官東川,歸鄱陽,遇東坡於齊安。怪其豐暇自得,余問之。曰:“吾再娶柳氏,三日而去官。吾不戚戚,而柳氏不能忘情於進退也。已而欣然,同憂患若處富貴,吾是以益安焉。”命其侍兒歌其所作《滿江紅》。嗟嘆之不足,乃次其韻。

Đổng Nghị Phu danh Việt, tự Tử Tào đắc tội, bãi quan Đông Xuyên, quy Bà Dương, ngộ Đông Pha ư Tề An. Quái kỳ phong hạ tự đắc, Dư vấn chi, viết: “Ngô tái thú Liễu thị, tam nhật nhi khứ quan. Ngô cố bất thích thích, tái ưu liễu thị bất năng vong tình ư tiến thoái dã. Dĩ nhi hân nhiên, đồng ưu hoạn nhược xử phú quý, ngô thị dĩ ích an yên”. Mệnh kỳ thị nhi ca kỳ sở tác mãn giang hồng. Ta than chi bất túc, nãi thứ kỳ vận.

 

憂喜相尋,                           Ưu hỷ tương tập,

風雨過、一江春          Phong vũ quá, nhất giang xuân lục.

巫峽夢、至今空有,          Vu giáp mộng, chí kim không hữu,

亂山屏                           Loạn sơn bình thốc.

何似伯鸞攜德耀,              Hà tự bá loan huề đức diệu,

簞瓢未足清歡              Đan biều vị túc thanh hoan túc.

漸粲然、光彩照階庭,Tiệm xán nhiên, quang thải chiếu giai đình,

生蘭                               Sinh lan ngọc.

 

幽夢裡,                               U mộng lý,

傳心                               Truyền tâm khúc.

腸斷處,                               Trường đoạn xứ,

憑他                               Bằng tha tục.

文君婿知否,                       Văn Quân tế tri phủ,

笑君                           Tiếu quân ty nhục.

君不見周南歌漢廣,          Quân bất kiến Chu Nam ca Hán quảng,

天教夫子休喬              Thiên giao phu tử hưu kiều mộc.

便相將、左手抱琴書,      Tiện tương tướng, tả thủ bão cầm thư,

雲間宿                               Vân gian túc.

 

 

Chú Thích

1- Mãn giang hồng 滿江紅: tên từ bài, gồm 93 chữ, đoạn trước có 4 trắc vận, đoạn sau có 5 trăc vận. Cách luật:

 

X T B B cú

B X T, X B X T vận

B T T, T B B T cú

T B X T vận

X T X B B T T cú

X B X T B B T vận

X X X, X T T B B cú

B B T vận

 

X X T cú

B T T vận

B T T cú

B B T vận

T B B X T cú

T B B T vận

X T X B B T T cú

X B X T B B T vận

X X X, X T T B B cú

B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Đổng Nghị Phu 董毅夫: tên là Việt , nguyên quán ở huyện Lạc An 樂安tỉnh Giang Tây 江西, TH.  

3- Tử Tào 梓漕: chức quan coi việc vận chuyển đường thủy ở Tử Châu , Tứ Xuyên 四川, TH. Đổng Việt nguyên là quan coi việc vận chuyển đường thủy ở Quỳ Châu 夔州, Tứ Xuyên, bị đổi sang Tử Châu, Tứ Xuyên, có thể đã bị lỗi gì đó, ông xin từ quan về quê.

4- Đông Xuyên 東川: đông bộ tỉnh Tứ Xuyên 四川, TH, nơi có Tử châu.

5- Bà Dương 鄱陽: thuộc tỉnh Giang Tây江西. TH.

6- Tề An 齊安: tức là thị trấn Quảng Châu 黃州, TH.

7- Quái kỳ phong hạ tự đắc 怪其豐暇自得: cảm thấy kinh lạ về phong cách nhàn hạ khoan khoát của Đổng Nghị Phu.

8- Tái thú 再娶: vợ mất, lấy vợ lần nữa.

9- Khứ quan 去官: từ quan, từ chức.

10- Cố : một mực, kiên quyết.

11- Thích thích 戚戚: lo lắng, buồn rầu.

12- Ưu : khen ngợi, tán dương.

13- Tiến thoái 進退: ám chỉ việc thăng giáng trong hoạn lộ,

14- Dĩ nhi 已而: về sau, không lâu.

15- Hân nhiên 欣然: vui vẻ, du khoái.

16- Thị nhi 侍兒: người hầu.

17- Thứ vận 次韻: họa theo vận của bài thơ trước.

18- Ưu hỷ tương tầm 憂喜相尋: lo và mừng thay nhau xoay chuyển.

19- Vu Giáp mộng 巫峽夢: vì Tử châu gần núi Vu Giáp, nên Tô Thức dùng chữ “Vu giáp mộng” trong bài Cao đường phú của Tống Ngọc để ám chỉ việc làm quan ở Tử Châu như mộng ảo, tỉnh mộng chỉ thấy núi non trùng điệp.  

20- Loạn sơn 亂山: chỉ 12 ngọn của dẫy núi Vu sơn.

21- Bá Loan 伯鸞: Lương Hồng 梁鴻 tự là Bá Loan 伯鸞 lấy vợ là Mạnh Quang 孟光, tự là Đức Diệu 德耀. Hai vợ chồng tự cầy cấy, dệt vải kiếm sống, vịnh thi đàn cầm tự vui.

22- Đan biều 簞瓢: giỏ tre (đựng cơm) và quả bầu (đựng nước uống): chỉ ẩm thực thanh đạm.

23- Thanh hoan 清歡: thanh đạm và hoan lạc. 

24- Xán nhiên 粲然: vẻ tươi cười.

25- Giai đình 階庭: khoảng sân ở trước thềm nhà, chỉ nhà cửa.

26- Lan ngọc 蘭玉 = chi lan ngọc thụ 芝蘭玉樹: cây lan quý, chỉ con em giỏi ngoan.

27- U mộng 幽夢: giấc mộng buồn hoặc là cảnh trong mộng lờ mờ.

28- Tâm khúc 心曲: tâm sự, suy nghĩ trong đáy lòng.

29- Văn Quân tế 文君婿: tức Tư Mã Tương Như chồng của Trác Văn Quân.

30- Ty nhục 卑辱: nghèo hèn và nhục nhã.

31- Chu Nam 周南: chương thứ nhất của Thi Kinh Quốc Phong 詩經國風 (tổng cộng 15 chương).

32- Hán quảng 漢廣: bài thơ thứ 9 của chương Chu Nam, nói về người phụ nữ đức hạnh.

 

南有喬木,不可休思。Nam hữu kiều mộc, bất khả hưu tư.

漢有遊女,不可求思。Hán hữ du nữ, bất khả cầu tư.

漢之廣矣,不可泳思。Hán chi quảng hỹ, bất khả vịnh tư.

江之永矣,不可方思。Giang chi vĩnh hỹ, bất khả phương tư.

Núi Nam sơn có cây kiều mộc trụi cành, dưới gốc cây không thể nghỉ ngơi.

Trên bờ sông Hán Giang có người nữ đi chơi, không thể trêu ghẹo truy cầu.

Sông Hán giang to rộng, không thể bơi qua.

Nước sông (Trường giang) chẩy dài, không thể dùng bè đi qua.

(chữ tư dùng làm trợ ngữ)

 

33- Phu tử 夫子: người nam trong bài thơ Hán Quảng (Kinh Thi Quốc Phong).

34- Hưu kiều mộc 休喬木: nghỉ ngơi ở chỗ cây kiều mộc (một loại cây to) trong bài thơ Hán Quảng.

35- Tiện tương tương 便相將: bèn phù trợ, giúp đỡ nhau.

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: Ông Đổng Nghị Phu tên là Việt, từ khi có tội lúc làm quan coi việc vận chuyển đường thủy ở Tử châu, từ chức quan ở Đông Xuyên, về Bà Dương, gặp Đông Pha ở Tề An. Lấy làm lạ về phong cách ung dung tự tại, tôi hỏi ông ta (sao vậy?). Trả lời rằng “Tôi tái thú bà Liễu thị, 3 ngày thì từ quan. Tôi kiên quyết không lo buồn, mà khen bà Liễu thị không vong tình trong sự thăng trầm trên hoạn lộ (của tôi). Về sau lại vui vẻ, cùng chung hoạn nạn cũng như cư xử lúc phú quý. Tôi lấy điều ích lợi an phận vậy”. (Đổng Việt) sai người hầu hát bài “Mãn giang hồng” do chính Đổng Việt sáng tác. Tôi than thở mãi, bèn họa vận (để làm bài mãn giang hồng này).

 

Lo lắng và mừng rỡ kế tục nhau đến,

Gió mưa đi qua, một dòng song xuân xanh lục.

Như giấc mộng của Sở vương ở núi Vu Giáp, khi tỉnh lại, cho đến nay hoàn toàn là không.

Chỉ có núi non ngổn ngang ngăn trở dựng đứng.

Sao lại tương tự như Bá Loan và vợ là Đức Diệu ẩn cư trong núi,

Tư liệu sinh hoạt không đủ nhưng thanh đạm và hoan lạc đầy đủ.

Dần dần sáng sủa ra, hào quang chiếu thềm nhà, sân vườn,

Sinh con quý như hoa lan, ngọc ngà.

 

Trong giấc mộng sâu kín,

Nói ra lời của nội tâm,

Chỗ thương tâm của mình.

Như nếu nỗi thương tâm cứ kế tục mãi.

Chồng của Trác Văn Quân (là Tư Mã Tương Như) ông có biết chăng?

Mọi người cười nhạo cái thấp hèn của ông.

Ông không thấy bài ca Hán Quảng trong chương Chu Nam của Kinh Thi sao? (Không cưỡng bức cầu hôn người hiền nữ).

Trời khiến người nam (trong bài thơ Hán Quảng) nghỉ ở cây Kiều mộc.

Như thế phù trợ và làm bạn nhau, tay trái ôm đàn và sách.

Ở giữa chốn trời mây (ly khai thế tục sống ẩn cư).

 

Phỏng Dịch

1 Mãn Giang Hồng - Ly Khai Thế Tục

 

Mừng sợ tìm nhau,

Mưa gió hết, Một dòng xanh lục.

Vu giáp mộng, tới nay không rỗng,

Ngổn ngang núi dốc.

Sao giống Bá Loan cùng Đức Diệu,

Áo cơm thanh đạm, vui sung túc.

Đời dần sáng, hào quang chiếu sân vườn,

Sinh con ngọc.

 

Trong giấc mộng,

Lời tâm phúc.

Lòng đứt đoạn,

Nếu liên tục.

Tương Như nếu có biết?

Cười ông hèn nhục.

Ông có thấy Kinh Thi bài Hán Quảng,

Cây to nam tử ngồi trên gốc.

Mến yêu nhau, tay trái ôm đàn sách,

Trời mây nước.

 

2 Ly Khai Thế Tục


Mừng sợ gặp nhau, mưa gió tàn,

Một dòng xanh lục chẩy miên man.

Giấc mơ Vu Giáp nay không rỗng,

Núi dốc chập chùng loạn ngổn ngang.

 

Bá Loan Đức Diệu dắt tay nhau,

Hạnh phúc tràn đầy cơm cháo rau.

Đời sáng dần, sân nhà rạng rỡ,

Sản sinh con ngọc đẹp ngày sau.

 

Lời nội tâm trong giấc mộng sâu,

Thương tâm tiếp nối chẳng nên cầu.

Tương Như có biết người cười diễu,

Nhục nhã thấp hèn đã bấy lâu.

 

Ông có thấy bài ca Hán Quảng,

Trời giao kiều mộc với nam nhân.

Tay cầm đàn sách cùng yêu mến,

Thanh tịnh ẩn cư vân thủy gian.


HHD 02-2021

 

 

  

Hoán Khê Sa - Tô Thức

浣溪沙 - 蘇軾   Hoán Khê Sa – Tô Thức

元豐七年十二月二十四日,從泗州劉倩叔游南山

Nguyên Phong thất niên thập nhị nguyệt nhị thập tứ nhật, Tùng Tứ châu Lưu Thiến thúc du Nam Sơn.

 

細雨斜風作曉寒。Tế vũ tà phong tác hiểu hàn,

淡煙疏柳媚晴灘。Đạm yên sơ liễu mị tình than.

入淮清洛漸漫漫。Nhập Hoài thanh Lạc tiệm man man.

 

雪沫乳花浮午盞,Tuyết mạt nhũ hoa phù ngọ trản,

蓼茸蒿筍試春盤。Liệu nhung hao duẩn thí xuân bàn.

人間有味是清歡。Nhân gian hữu vị thị thanh hoan.

 

Chú Thích

1- Hoán khê sa浣溪沙: nguyên là tên một bản nhạc của Đường giáo phường, còn có tên là “Hoán sa khê: suối giặt lụa”, theo điển tích nàng Tây Thi giặt lụa ở suối Nhược Da khê若耶溪. Cách luật:

 

X T X B X T B vận

X B X T T B B vận

X B X T T B B vận

 

X T X B B T T cú

X B X T T B B vận

X B X T T B B vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vn: vn

 

2- Tứ châu 泗州thị trấn Tứ Châu, nay là Tứ Huyện 泗县 thuộc tỉnh An Huy安徽, TH.

3- Lưu Thiến Thúc 劉倩叔: tên là Sĩ Ngạn士彥, người Tứ châu 泗州.

4- Nam sơn 南山: ở đông nam Tứ Châu 泗州, phong cảnh rất đẹp.

5- Tế vũ tà phong 細雨斜風:  mưa bụi gió nhẹ.      

6- Mị : đẹp.

7- Than  = Thập lý than十里灘: bãi cát dài 10 dặm, ở vùng Nam Sơn phụ cận.

8- Hoài: sông Hoài hà 淮河. Lạc: sông Lạc hà 洛河.

9- Man man 慢慢: mênh mông.

10- Tuyết mạt nhũ hoa雪沫乳花: lúc nấu trà thì bọt nổi lên trắng như tuyết, như hoa sữa,

11- Ngọ trản 午盞 = ngọ trà: uống trà buổi trưa,

12- Liệu nhung 蓼茸: mầm rau liệu non (một loại cây mọc ở bờ nước).

13- Hao duẩn: măng cây rau hao, một loại thực vật dùng làm thức ăn giống như lõi cây rau sà lách.

14- Xuân bàn 春盤: tập tục thời xưa, bầy rau hoa quả bánh trái trên mâm, đem biếu bà con bạn bè trong dịp lập xuân.

15- Thanh hoan 清歡: cái vui thanh đạm.

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: Năm Nguyên Phong thứ 7, ngày 24 tháng 12, cùng ông Lưu Thiến Túc ở Tứ Châu, đi chơi xem cảnh ở Nam Sơn.

 

Mưa bụi gió nhẹ làm buổi sáng lạnh.

Khói nhạt liễu thưa bãi cát quang tạnh đẹp đẽ.

Sông Hoài và sông Lạc (nhập lại) mênh mông.

 

Nấu trà buổi trưa, bọt nổi lên trắng như tuyết, như bọt sữa,

Rau “liệu” non và măng rau “hao” bầy trên mâm xuân.

Trên nhân gian có vị ngon chính là vui thú thanh đạm.

  

Phỏng Dịch

Du Nam Sơn

 

Sáng lạnh bụi mưa gió nhẹ lan.

Liễu thưa khói nhạt cát miên man.

Dòng sông trong vắt chẩy mênh mang.

 

Bọt trắng trà hoa phủ chén ngọc,

Măng hao rau đắng hưởng mâm xuân.

Nhân gian thú vị đời hân hoan.

 

HHD 03-2021

Hạ tân Lang - Tô Thức

賀新郎 - 蘇軾   Hạ Tân Lang – Tô Thức

夏景 Hạ Cảnh

 

乳燕飛華                       Nhũ yến phi hoa ốc.

悄無人、桐陰轉午,          Thiểu vô nhân, đồng âm chuyển ngọ,

晚涼新                           Vãn lương tân dục.

手弄生綃白團扇              Thủ lộng sinh tiêu bạch đoàn phiến,

扇手一時似                   Phiến thủ nhất thời tựa ngọc.

漸困倚、孤眠清          Tiệm khốn ỷ, cô miên thanh thục.

簾外誰來推繡戶,              Liêm ngoại thùy lai thôi tú hộ,

枉教人、夢斷瑤臺Uổng giao nhân, mộng đoạn giao đài khúc.

又卻是,                               Hựu khước thị,

風敲                               Phong xao trúc.

 

石榴半吐紅巾              Thạch lựu bán thổ hồng cân túc.

待浮花、浪蕊都盡,          Đãi phù hoa, lãng nhụy đô tận,

伴君幽                           Bạn quân u độc.

穠豔一枝細看取,              Nùng diễm nhất chi tế khan thủ,

芳心千重似                   Phương tâm thiên trùng tự thúc.

又恐被、秋風驚          Hựu khủng bị, thu phong kinh lục.

若待得君來向此,              Nhược đãi đắc quân lai hướng thử,

花前對酒不忍              Hoa tiền đối tửu bất nhẫn xúc.

共粉淚,                               Cộng phấn lệ,

兩簌                               Lưỡng thốc thốc.

 

Chú Thích

1- Hạ tân lang賀新郎: tên từ bài, tên khác “Hạ tân lương賀新涼”, “Nhũ phi yến乳飛燕”, “Phong xao trúc風敲竹”. Cách luật:

 

T T B B T vận

T B B, B B T T cú

T B B T vận

T T B B T B T cú

T T T B T T vận

T T T, B B B T vận

B T B B B T T cú

T B B, T T B B T vận

T T T cú

B B T vận

 

T B T T B B T vận

T B B T T B T cú

T B B T vận

B T T B T T T cú

B B B B T T vận

T T T, B B B T vận

T T T B B T T cú

B B T T T T T vận

T T T cú

T T T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Nhũ yến乳燕: chim én non, chim én nhỏ.

3- Phi: bay, bản khác chép “Thê: đậu”.

4- Thiểu: yên lặng.

5- Đồng âm桐陰: bóng mát của cây ngô đồng.

6- Sinh Tiêu生綃: tơ sống, lụa dệt bằng tơ sống.

7- Đoàn phiến團扇: cái quạt tròn. Vào thời Nam Bắc Triều ở TH, xuất hiện một bài ca mang tên “Oán ca hành怨歌行” hay còn gọi là “Đoàn phiến thi團扇”, như sau:

 

新裂齊紈素,Tân liệt tề hoàn tố, lụa nước Tề trắng nõn mới dệt xong,

鮮潔如霜雪。Tiên khiết như sương tuyết. mới sạch như sương tuyết.

裁爲合歡扇,Tài vi hợp hoan phiến, may thành quạt hợp hoan,

團團似明月。Đoàn đoàn tự minh nguyệt. tròn sánh như minh nguyệt.

出入君懷袖,Xuất nhập quân hoài tụ, ra vào bên cạnh chàng,

動搖微風發。Động dao vi phong phát. Phe phẩy sinh gió mát.

常恐秋節至,Thường khủng thu tiết chí, Thường sợ tiết thu đến,

涼飈奪炎熱。Lương biểu đoạt viêm nhiệt. gió mát đoạt nóng bức.

棄捐篋笥中,Khí quyên khiếp tứ trung, ném bỏ vào trong rương,

恩情中道絕。Ân tình trung đạo tuyệt. Ân tình giữa đường dứt.”

 

Từ đó về sau chữ “Đoàn phiến” thường dùng để chỉ giai nhân bị thất sủng.

 

8- Phiến thủ扇手: quạt và tay.

9- Nhất thời 一時 = nhất tề.

10- Khốn = khốn quyện困倦: mệt mỏi.

11- Thanh thục清熟: ngủ say.

12- Tú hộ繡戶: cửa thêu đẹp.

13- Mộng đoạn夢斷: tỉnh mộng.

14- Dao đài瑤臺: đài xây bằng đá, ngọc quý, theo truyền thuyết ở trên núi Côn Luân. Trong bài này, chữ dao đài chỉ cảnh tiên trong giấc mộng.

15- Khúc: nơi hẻo lánh, xứ sở thâm u.

16- Phong xao trúc風敲竹: gió thổi xao động khóm trúc, ý nói mơ người bạn cũ đến thăm theo bài thơ của Lý Ích 李益đời Đường:

 

開門復動竹,Khai môn phục động trúc, (gió) mở cửa rồi lại động khóm trúc,

疑是故人來。Nghi thị cố nhân lai. Nghi rằng bạn cũ đến.”

 

17- Thạch lựu石榴: hoa lựu, hoa thạch lựu.

18- Hồng cân túc紅巾蹙: hoa lựu mới nở hé như cái khăn đỏ nhăn rúm.

19- Quân: chỉ mỹ nhân.

20- Phù hoa lãng nhụy浮花浪蕊: hoa thảo tầm thường, nhẹ nhàng khoe sắc nhưng chóng tàn như hoa đào, hạnh. Trích dẫn câu thơ của Đường Hàn Dũ·韓愈 trong bài thơ Hạnh hoa thi杏花詩:

 

浮花浪蕊鎮長有,Phù hoa lãng nhụy trấn trường hữu,

才開還落瘴霧中。Tài khai hoàn lạc chướng vụ trung.

Hoa nhụy tầm thường, thường thường có,

Vừa mới nở đã tàn rụi trong lớp chướng khí.”

 

21- U độc幽獨: lặng lẽ một mình.

22- Nùng diễm穠豔: đẹp diễm lệ,

23- Khán thủ看取: xem. Chữ thủ dùng làm trợ ngữ, vô nghĩa.

24- Phương tâm: tấm lòng, tâm sự, bản khác chép “Phương tâm芳意: ý nghĩ, tâm sự”.

25- Thiên trùng tự thúc千重似束: cánh hoa lựu chồng chất tự bó, mượn để chỉ tâm sự của mỹ nhân trùng trùng chất chứa trong lòng.

26- Thu phong kinh lục秋風驚綠: gió thu nổi lên làm hoa lựu điêu tàn, chỉ còn lại lá xanh.

27- Xúc = xúc mục觸目: ánh mắt nhìn đến.

28- Phấn lệ粉淚: nước mắt trên má phấn, nước mắt của mỹ nhân.

29- Lưỡng thốc thốc兩簌簌: cánh hoa và nước mắt cùng rơi tơi tả lã chã.

 

Dịch Nghĩa

Chim én non bay trên nhà hoa lệ.

Yên tĩnh không có người, bóng mát cây ngô đồng chuyển quá chính ngọ,

Buổi chiều tối mát mẻ, (mỹ nhân) mới tắm xong.

Tay cầm cái quạt tròn trắng bằng lụa,

Cái quạt và cánh tay đều đẹp như ngọc.

Dần dần mệt mỏi, dựa vào gối, ngủ say sưa một mình.

Ngoài tấm rèm có ai lại đẩy cánh cửa thêu,

Đương không làm kinh tỉnh giấc mộng nơi giao đài tiên cảnh.

(Nguyên lai) lại chỉ là,

Gió thổi qua khóm trúc.

 

Hoa thạch lựu hé nở như cái khăn đỏ nhăn rúm.

Đợi khi những loài hoa tầm thường đã tàn hết,

(Hoa lựu mới nở) để làm bạn với vị (mỹ nhân) cô độc.

Hãy xem kỹ một đóa (hoa lựu) nùng diễm,

(Cành hoa) nhiều tầng giống như tâm sự của mỹ nhân tự gói ghém trong lòng.

Lại còn sợ bị gió thu thổi tàn rụng chỉ còn lại lá (cây lựu).

Nếu như đợi được mỹ nhân đến đây (trước khi hoa tàn),

Cùng uống rượu trước khóm hoa, cũng không nhẫn tâm đưa ánh mắt nhìn (hoa tàn).

(Lúc đó cánh hoa tàn) cùng giọt lệ trên má phấn,

Cả 2 đều rơi lả tả.

 

Phỏng Dịch

Hạ Cảnh 


Chim én lượn nhà hoa,

Không người tĩnh lặng qua.

Bóng cây xoay chính ngọ,

Tắm mát buổi chiều tà.

 

Quạt lụa tròn cầm tay,

Lụa, tay đẹp ngất ngây.

Mệt mỏi tràn tâm ý,

Dựa đầu giấc ngủ say.

 

Ngoài màn ai đến đây

Đẩy tấm cửa thêu ngoài.

Gián đoạn dao đài mộng,

Bụi trúc gió thu lay.

 

Hồng lựu chiếc khăn nhăn,

Khi phù hoa đã hết.

Sẽ bạn người cô đơn,

Một cành hoa thắm thiết.

 

Xem kỹ hoa nhiều cánh,

Như tự gói phương tâm,

Sợ gió thu khinh bạc,

Vùi dập hoa âm thầm.

 

Hãy chờ đón mỹ nhân,

Trước rượu xem hoa tàn.

Không cầm được cảm xúc,

Má phấn lệ tràn lan.

 

HHD 02-2021