Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Wednesday, June 19, 2019

Tặng Biệt - Đỗ Mục


贈別二首 - 杜牧    Tặng Biệt - Đỗ Mục
其一                              Kỳ 1          
娉娉嫋嫋十三餘,Phinh phinh niểu niểu thập tam dư,
豆蔻梢頭二月初。Đậu khấu tiêu đầu nhị nguyệt sơ.
春風十里揚州路,Xuân phong thập lý Dương Châu lộ,
捲上珠簾總不如。Quyển thượng châu liêm tổng bất như.

其二                              Kỳ 2
多情卻似總無情,Đa tình khước tự tổng vô tình,
唯覺樽前笑不成。Duy giác tôn tiền tiếu bất thành.
蠟燭有心還惜別,Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,
替人垂淚到天明。Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh.

Chú Thích:
1- Đỗ Mục đang làm chưởng thơ ký cho quan Tiết độ sứ ở Dương Châu thì được thăng chức làm Giám sát ngự sử. Khi từ biệt Dương châu về Trường An nhậm chức, ông làm thơ này để từ biệt người ca nữ thân thiết.
2- Phinh phinh (sính sính) 娉娉: xinh đẹp.
3- Niểu niểu (niệu niệu) 嫋嫋: nhỏ nhắn xinh đẹp yểu điệu.
4- Thập tam dư 十三餘: hơn mười ba, chỉ số tuổi.
5- Đậu khấu 豆蔻: Cây đậu khấu ra hoa lúc đầu mùa hạ. Những thiếu nữ khoảng mười ba, bốn tuổi được gọi là” Đậu khấu niên hoa”.
6- Tiêu đầu梢頭: ngọn cây, trong bài này chữ tiêu đầu hàm ý trẻ đẹp. Chữ tiêu còn đọc là sao.
7- Đậu khấu tiêu đầu nhị nguyệt sơ 豆蔻梢頭二月初: ngọn cây đậu khấu vào lúc đầu tháng 2 (chưa ra hoa), ám chỉ tuổi hoa niên của các thiếu nữ.
8- Xuân phong thập lý 春風十里: mười dặm gió xuân, ám chỉ con đường phồn hoa dài.
9- Dương Châu 揚州: thành Dương châu, TH.
10- Quyển thượng châu liêm tổng bất như 捲上珠簾總不如: cuốn rèm châu lên (cho thấy rõ mặt) đều không (đẹp) như (cô ta).
11- Đa tình khước thị tổng vô tình 多情卻似總無情: Người tuy nhiều tình cảm nhưng trong nhất thời không biểu đạt được tình ý, chỉ yên lặng đối diện nhìn nhau dường như là vô tình vậy.
12- Giác: cảm nhận.
13- Tôn : chén, ly uống rượu.
14- Lạp chúc 蠟燭: nến sáp.
15- Tích biệt 惜別: thương tiếc cuộc ly biệt.
16- Thùy lệ 垂淚: chẩy nước mắt, trong lúc cháy, chất sáp của cây nến chẩy xuống như những giọt nước mắt.

Dịch Nghĩa:

Kỳ 1
Tư thái đẹp gái, cử chỉ khoan thai yểu điệu hơn 13 tuổi,
Như một ngọn đậu khấu vào tháng 2 (còn đang hàm nụ).
Tìm hết cả 10 dặm đường hoa lệ ở Dương châu,
Cuốn rèm châu lên (Để thấy rõ mặt các vị phấn đại) không ai sánh bằng cô ta.

Kỳ 2
Người vốn đa tình, ngồi với nhau ngơ ngẩn không nói gì được thì cũng như người vô tình mà thôi.
Chỉ cảm thấy rằng ngồi trước ly rượu mà muốn cười cũng không cười thành tiếng.
Cây nến sáp có lòng còn biết thương cho cuộc biệt ly,
Nó thay cho người mà rơi lệ (sáp) mãi cho đến khi trời sáng.


Phỏng Dịch:
Tặng nhau lúc ly biệt

Yểu điệu mười ba đẹp mặn mà,
Như cành đậu khấu chưa ra hoa.
Dương Châu mỹ lệ đường mười dặm,
Rèm ngọc cuốn cao còn kém xa.

Đa tình cũng tựa như vô tình,
Chỉ biết cười khan trước chén quỳnh.
Nến sáp có lòng thương cách biệt,
Thay người rơi lệ đến bình minh.

HHD 6-2019

Tuesday, June 18, 2019

Đạp Sa Hành - Tần Quan

踏莎行 - 秦觀  Đạp Sa Hành - Tần Quan

霧失樓臺,                 Vụ thất lâu đài,
月迷津                 Nguyệt mê tân độ,
桃源望斷無尋     Đào nguyên vọng đoạn vô tầm xứ.
可堪孤館閉春寒,     Khả kham cô quán bế xuân hàn,
杜鵑聲裏斜陽     Đỗ quyên thanh lý tà dương mộ.

驛寄梅花,                 Dịch ký mai hoa,
魚傳尺                 Ngư truyền xích tố.
砌成此恨無重     Thế thành thử hận vô trùng số.
郴江幸自繞郴山,     Sâm giang hạnh tự nhiễu Sâm sơn,
為誰流下瀟湘     Vi thùy lưu hạ Tiêu Tương khứ.

Chú Thích
1- Đạp Sa (thoa) Hành 踏莎行: tên từ điệu. Điệu này có 58 chữ, chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu, 3 trắc vận.

2- Sâm châu 郴州: tên đất, nay thuộc tỉnh Hồ Nam 湖南, TH

3- Vụ thất lâu đài 雾失楼台: sương dầy che khuất lâu đài.
4- Tân độ 津渡: bến đò, nơi thuyền bè đậu để đón người, vật, chở đi hoặc từ nơi khác đến.
5- Nguyệt mê tân độ 月迷津渡: ánh trăng mông lung, không nhìn rõ bến đò.
6- Đào nguyên 桃源 = Đào hoa nguyên 桃花源: theo cuốn sách Đào Hoa Nguyên Ký 桃花源記 của Đào Uyên Minh 陶淵明 đời Nam Bắc Triều, kể lại chuyện 1 người ngư dân tình cờ lạc vào 1 nơi cách ly với thế tục. Nơi đó gọi là Đào Hoa Nguyên, người dân sống an lành đầy đủ, không có chiến tranh, áp bức.
7- Vọng đoạn 望斷: đưa mắt nhìn thật xa.
8- Vô tầm xứ 無尋處: tìm không thấy.
9- Đào nguyên vọng đoạn vô tầm xứ 桃源望斷無尋處: đưa mắt nhìn thật xa mà không tìm thấy chốn Đào Nguyên ở đâu. Đào Hoa Nguyên  là nơi có sinh hoạt an lạc, tý tưởng.
10- Khả kham 可堪: ý nói làm sao có thể chịu đựng được.
11- Cô quán 孤館: quán trọ cô đơn. Khách quán cô tịch. Cô quán bế: giam mình trong cô quán.
12- Đỗ quyên : Chim cuốc. Tục truyền tiếng chim cuốc kêu gợi lên lòng nhớ quê hương.
13- Dịch ký mai hoa 驛寄梅花:  thành ngữ này xuất xứ từ bài thơ “Tặng Phạm Diệp Thi 贈范曄詩” của Lục Khải 陸凱 (đời Nam Bắc Triều) làm để tặng người bạn là Phạm Diệp 范曄:

折梅逢驿使,Chiết mai phùng dịch sứ,  Bẻ cành mai gặp người đưa thư,

寄与陇头人。Ký dữ Lũng đầu nhân. Gửi cho người ở Lũng Đầu.

江南无所有,Giang Nam vô sở hữu, Vùng Giang Nam không có gì cả,

聊寄一枝春。Liêu ký nhất chi xuân. Hãy gửi một cành xuân.


Về đời Tống có sách chép lại chuyện này và cho rằng Lục Khải từ Giang nam đã gửi 1 cành hoa mai kèm theo 1 bài thơ đến tặng Phạm Diệp ở Tràng An. Thành ngữ này nói lên tình bạn thắm thiết giữa 2 người.
14- Ngư truyền xích tố 魚傳尺素: Trong bài thơ “Ẩm mã trường thành quật hành 飲馬長城窟行” của Thái Ung 蔡邕 (hoặc của Vô danh thị) đời Đông Hán 東漢có câu:

客從遠方來,Khách tùng viễn phương lai, Khách từ nơi xa đến,

遺我雙鯉魚。Di ngã song lý ngư. Đem cho tôi 2 con cá chép.

呼兒烹鯉魚,Hô nhi phanh lý ngư, Gọi con trẻ đi nấu cá chép,

中有尺素書。Trung hữu xích tố thư. Ở trong có thư bằng lụa dài 1 thước (Tầu).


Vì vậy ngư truyền xích tố có nghĩa là truyền đạt thơ tín, cũng có nghĩa là nhận được lời thăm hỏi của bạn bè, người thân.
Cũng có người cho rằng ngày xưa thư tín thường bỏ vào trong 1 cái hộp bằng gỗ. Hộp này được khắc chạm thành hình con cá vì vậy mới có thanh ngữ này.
15- Thế : chồng chất. 
16- Sâm giang 郴江: tên sông, nguyên phát từ Hoàng Sầm sơn 黄岑山, hạ lưu chẩy vào Tương giang 湘江.
17- Hạnh tự 幸自: vốn từ, vốn là.
18- Nhiễu : vòng quanh, vòng vo quanh, vây quanh.
19- Vi thùy爲誰: vì ai, vì cái gì?
20- Tiêu Tương 潇湘: Tiêu thủy và Tương thủy là 2 con sông ở tỉnh Hồ Nam, TH. Hạ lưu 2 sông này họp lại với nhau, có khi gọi là Tương giang, có khi gọi là Tiêu giang.
21- Vi thùy lưu hạ Tiêu Tương khứ 為誰流下瀟湘去: Vì cái gì mà chẩy vào sông Tiêu Tương . Ý nói con sông Sâm giang cũng không chịu đựng được tịch mịch huống chi là người.

Dịch Nghĩa:
Bài từ theo điệu Đạp sa hành của Tần Quan.
Sương mù che khuất lâu đài,
Ánh trăng làm cho bến nước nhìn mờ ảo.
Nhìn thật xa không thấy Đào Nguyên ở đâu.
Làm sao chịu đựng được khi giam mình trong quán trọ cô đơn ở thời tiết lạnh của mùa xuân.
Trong tiếng kêu của chim cuốc dưới ánh tà dương chiều.

Lời hỏi thăm của bạn ở xa,
Thư tín gửi đến.
(Càng làm cảm thấy) chất chồng lên thành mối hận (cô đơn )này vô hạn.
Sâm giang vốn từ vây quanh Sâm sơn,
Vì sao lại chẩy vào dòng Tiêu Tương (vì tịch mịch huống chi là người)

Phỏng Dịch

1 Đạp Sa Hành - Quán Vắng Nhớ bạn

Sương phủ lâu đài,
Trăng mờ bến đỗ.
Đào nguyên ngóng kỹ không còn chỗ.
Chịu sao xuân lạnh quán cô đơn,
Cuốc kêu trong ánh chiều tan vỡ.

Gửi cánh hoa mai,
Cá đưa thước lụa.
Chất chồng mối hận vô cùng số.
Sông kia vốn phát từ sơn lâm,
Vì đâu nhập với dòng Tương nọ.

2 Quán Vắng Nhớ Bạn

Sương đêm phủ kín lâu đài,
Trăng mờ bến đỗ tìm hoài Đào nguyên.
Lạnh đầy quán vắng cô miên,
Tà dương chìm xuống đỗ quyên than đời.
 
Cá đưa lụa, gửi cành mai,
Chất chồng bất tận hận này chứa chan.
Sâm giang vốn nhiễu Sâm san,
Vì đâu chẩy xuống Tương giang một dòng.

HHD 6-2019

Bản Dịch của Lộc Bắc

Đạp Sa Hành - Tần Quan 

1-   

Sương phủ lâu đài

Trăng mờ bến đỗ

Mút mắt Đào Nguyên nơi nao chỗ?

Khó kham nơi quán trọ xuân tàn

Trong tà dương tiếng kêu chim Đỗ.

 

Trạm gởi hoa mai

Cá giao lụa nhỏ

Chất chứa thành hận này vô số

Sông Sâm uốn khúc quanh núi Sâm

Vì sao trôi xuống Tiêu Tương đổ?

 

2-   

Sương phủ dinh, trăng mờ bến đỗ

Trông ngút ngàn, đâu chỗ Đào Nguyên?

Khó kham quán vắng xuân miên

Trong tà dương muộn tiếng quyên bên chùa

 

Trạm gởi hoa, cá đưa lụa nhỏ

Chất chứa thành, vô số hờn căm

Sông Sâm uốn lượn núi Sâm

Vì sao đổ xuống ngang tầm Tiêu Tương !?

Lộc Bắc

Jul23





Monday, June 10, 2019

Mãn Đình Phương - Tần Quan

滿庭芳 - 秦觀  Mãn Đình Phương - Tần Quan

山抹微雲,                 Sơn mạt vi vân,
天連衰草,                 Thiên liên suy thảo,
畫角聲斷譙         Họa giác thanh đoạn tiều môn.
暫停征棹,                 Tạm đình chinh trạo,
聊共引離             Liêu cộng dẫn ly tôn.
多少蓬萊舊事,         Đa thiểu bồng lai cựu sự.
空回首、煙靄紛。 Không hồi thủ, yên ái phân phân.
斜陽外,                     Tà dương ngoại,
寒鴉萬點,                 Hàn nha vạn điểm.
流水繞孤             Lưu thủy nhiễu cô thôn.

                         Tiêu hồn.
當此際,                     Đương thử tế,
香囊暗解,                 Hương nang ám giải,
羅帶輕                 La đái khinh phân.
謾贏得,                     Mạn doanh đắc,
青樓薄倖名         Thanh lâu bạc hãnh danh tồn.
此去何時見也,         Thử khứ hà thời kiến dã,
襟袖上、空惹啼。 Khâm tụ thượng, không nhạ đề ngân.
傷情處,                     Thương tình xứ,
高城望斷,                 Cao thành vọng đoạn,
燈火已黃             Đăng hỏa dĩ hoàng hôn.

Chú Thích
1- Mãn Đình Phương 滿庭芳: tên từ điệu, gồm 95 chữ. Đoạn trước có mười câu, 4 bình vận. Đoạn sau có 11 câu, 5 bình vận.
2- Mạt : bôi lên, thoa lên. Vi vân 微雲: đám mây nhỏ.
3- Liên ; liền. Bản khác chép niêm : dán vào, dính vào.
4- Họa giác 畫角: tù và dùng trong quân đội.
5- Tiều môn 譙門: thành môn 城門, toà nhà trên thành làm vọng gác.
6- Chinh trạo 征棹:  thuyền viễn hành, thuyền đi đường xa. (Trạo: mái chèo)                                                                                           
7- Liêu : hãy, bèn.
8- Dẫn: cử, nâng
9- Tôn : ly uống rượu, chén uống rượu. Dẫn ly tôn 引離尊: nâng chén rượu ly biệt.
10- Bồng lai cựu sự 蓬萊舊事: chuyện ái tình của nam nữ trong quá khứ.
11- Yên ái 煙靄: mây mù.
12- Phân phân 紛紛: tạp loạn, mang loạn.
13- Hàn nha 寒鴉: một loài chim quạ có mầu đen và xám.
14- Nhiễu : vòng quanh, vòng vo chung quanh.
15- Tiêu hồn 消魂: Cực độ thương tâm. Tâm thần hoảng hốt không biết mình ở đâu.
16- Hương nang 香囊: túi đựng chất thơm và đồ trang sức của phụ nữ.
17- La đái 羅帶: Dải lụa.
18- Mạn : uổng phí, vô ích.
19- Mạn doanh đắc, Thanh lâu bạc hãnh danh tồn 謾贏得,青樓薄倖名存: Vô ích  được mang danh kẻ bạc tình trong đám lầu xanh. Trích dẫn câu thơ của Đỗ Mục 杜牧:

十年一覺揚州夢,Thập niên nhất giác Dương Châu mộng
贏得青樓薄倖名.   Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh.
(mười năm chợt tỉnh giấc mộng ở Dương Châu, Có được tên tuổi là kẻ bạc tình trong giới lầu xanh)

20- Thanh lâu 青樓: nơi kỹ nữ ở.
21- Bạc hãnh 薄倖: bạc tình.
22- Khâm tụ 襟袖: cổ áo và tay áo.
23- Không nhạ 空惹: hoàn toàn đụng chạm tới, dính líu tới.
24- Đề ngân 痕: vệt nước mắt.
25- Vọng đoạn 望斷: đưa mắt nhìn thật xa.

Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu Mãn đình phương của Tần Quan.
Trên núi có vệt mây.
Bầu trời nối tiếp với đám cỏ uá. (1 kiểu hành văn thời xưa)
Trên thành tiếng tù và ngập ngừng.
Tạm dừng thuyền viễn hành,
Hãy cùng nhau nâng chén rượu, nói lời tạm biệt (với người thân hoặc tình nhân lúc thuyền sắp nhổ neo ra đi).
(Cũng có người hiểu là thuyền dừng tạm ở nơi nào đó, đám hành khách trên thuyền mời ca nữ đến vui chơi)
Bao nhiêu khúc tình ái trước đây,
(Bây giờ) nhắc lại chỉ là những đoạn khói mây hỗn tạp.
Phía ngoài ánh tà dương,
Bầy quạ như hàng vạn điểm (đen),
Dòng nước chẩy vòng vo quanh xóm làng đơn độc.

Lòng buồn thương cực điểm.
Trong lúc đó,
(Nàng) âm thầm mở túi đựng chất thơm và đồ trang sức,
Dải lụa nhẹ mở (Lấy kỷ vật ra tặng cho chàng)
(Theo tập quán xưa, khi mới gặp nhau hay lúc chia tay thường tặng nhau kỷ vật).
Lấy được tên tuổi một cách vô ích,
là kẻ bạc tình trong giới lầu xanh. (tác giả tự nói về mình)
Lần đi này không biết lúc nào mới thấy lại,
Trên tay áo cổ áo, dính toàn là vệt nước mắt.
Trong lúc tình buồn,
Đứng trên thành cao nhìn thất xa,
Thấy đèn, lửa nổi lên, đã đến lúc hoàng hôn

Phỏng Dịch

1 Mãn Đình Phương - Luyến Tình

 

Núi quết mây vương,

Trời liền cỏ úa,

Ngập ngừng tiếng ốc cao thành.

Tạm dừng phiêu lãng,

Cử chén biệt ly tình.

Tất cả thần tiên chuyện cũ,

Quay nhìn lại, sương khói linh tinh.

Tà dương chiếu,

Quạ đen vạn điểm,

Dòng nước nhiễu thôn bình.

 

Buồn tênh.

Trong lúc đó,

Hương trang lén mở,

Giải lụa trao anh.

Được ban hão,

Lầu xanh bạc bẽo hư danh.

Cách biệt bao giờ gặp lại?

Trên tay áo, giọt lệ long lanh.

Thương tình lắng,

Thành cao ngó suốt,

Chiều đến lửa đèn quanh.


2 Luyến Tình

Núi cao có tí mây viền,
Bầu trời cỏ uá nối liền mầu xanh.
Tù và từng tiếng trên thành,
Thuyền xa trên bến tạm đình nghỉ ngơi.
Cùng nhau nâng rượu ly bôi,
Bao nhiêu tình cũ đầy vơi rối mờ.
Quạ đen muôn điểm chiều mơ,
Cô thôn dòng suối lững lờ uốn quanh.

Tiêu hồn một thoáng đến nhanh,
Túi thơm dải lụa chút tình trao nhau.
Bạc hãnh lang chốn thanh lâu,
Lần này từ biệt hướng đầu viễn phương.
Bao giờ gặp lại người thương?
Não lòng nước mắt còn vương áo hồng.
Thành cao buồn đọng ngóng trông,
Xa xa đèn lửa hoàng hôn đã về.

HHD 6- 2019

Bản Dịch của Lộc Bắc

Mãn Đình Phương, Tần Quan

1-

Mây nhạt núi cao

Trời liền cỏ, lác

Tù và vọng gác mất còn

Thuyền ngưng, chèo nghỉ

Hứng, nâng rượu biệt ngon

Bao nhiêu ái ân ngày cũ

Nhắc lại chỉ khói mây vờn

Ngoài nắng quái

Quạ đen vạn điểm

Nước chảy vòng cô thôn

 

Nát hồn

Trong lúc đó

Túi hương lén mở

Dải lưng nhẹ tuồn

Được tên tuổi

Lầu xanh bạc bẽo tiếng đồn

Nay đi khi nào thấy lại?

Trên áo dài đầy ngấn lệ tuôn

Buồn tình lúc

Thành cao nhìn suốt

Đèn lửa thắp hoàng hôn.

 

2-

Vệt mây núi, trời liền cỏ, lác

Tù và nơi vọng gác mất còn

Thuyền dừng chèo nghỉ dưới non

Hứng nâng rượu biệt lời buồn tiễn đưa

 

Bao tình yêu, ngày xưa ân ái

Nhắc lại chi chỉ khói mây vờn

Ngoài nắng quái, quạ vạn con

Nước sông uốn lượn chảy tròn xóm thô

 

Trong lúc đó, sầu buồn cực điểm

Nơi túi hương, dấu diếm vàng son

Mở giải lụa, tư trang tuồn

Lầu xanh bạc bẽo danh cồn bấy lâu

 

Nay bước đi khi nào thấy lại

Ngấn lệ tràn đầy vải áo khăn

Thành cao nhìn suốt mấy tầng

Hoàng hôn đèn thắp bội phần buồn tênh!

 

Lộc Bắc

Sept23

 


Sunday, June 9, 2019

Nam Ca Tử - Âu Dương Tu


南歌子 - 歐陽修  Nam Ca tử - Âu Dương Tu

鳳髻金泥帶,                          Phụng kết kim nê đái,
龍紋玉掌                          Long văn ngọc chưởng sơ.
走來窗下笑相              Tẩu lai song hạ tiếu tương phù.
愛道畫眉深淺、入時Aí đạo họa mi thâm thiển, nhập thời vô.

弄筆偎人久,                         Lộng bút ôi nhân cửu,
描花試手                      Miêu hoa thí thủ sơ.
等閑妨了繡功             Đẳng nhàn phương liễu tú công phu,
笑問雙鴛鴦字、怎生Tiếu vấn song uyên ương tự, chẩm sinh thư.

Chú Thích
1- Nam Ca Tử 南歌子: tên từ điệu. Tên khác là: Nam kha tử 南柯子, phong điệp lệnh 風蝶令, tiên lữ cung 仙呂宮. Bài từ này có 52 chữ, hai đoạn, mỗi đoạn 4 câu có 3 bình vận. Cách luật:

 

X X B X T cú

B B X T B vận

X B X T T B B vận

X T X B X T, T B B vận

  

X T B B T cú

B B T T B vận

X B X T T B B vận

X T X B X T, T B B vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

2- Phụng kết 鳳髻: 1 kiểu búi tóc như hình chim phụng hoàng, cũng có thể hiểu là cài kim thoa hình chim phụng lên búi tóc.
3- Kim nê 金泥= nê kim 泥金: bột vàng hay bột kim loại dùng để thiếp lên vật dụng như lụa, gỗ, sắt…cho có mầu vàng óng ánh.
4- Kim nê đái 金泥帶: dải lụa thiếp (sơn) mầu vàng.
5- Long văn ngọc chưởng sơ 龍紋玉掌梳: cái lược ngọc gần bằng bàn tay (hoặc là hình dạng giống bàn tay) có vẽ hoa văn hình con rồng.
6- Tương phù 相扶: ôm nhau, dìu nhau, đỡ lưng nhau.
7- Ái đạo 愛道: nói yêu, yêu mến nói. Thân thiết nói.
8- Nhập thời vô 入時無 = thời mao ma 時髦么: kịp thời trang không?
9- Lộng bút 弄筆: cầm bút.
10- Ôi nhân 偎人: dựa vào người.
11- Miêu hoa 描花: vẽ hoa.
12- Thí thủ 試手: thử làm.
13- Sơ : lần đầu, mới vừa.
14- Đẳng nhàn 等閑: tùy tiện, không cẩn thận.
15- Phương (phưởng, phướng) : làm hỏng, làm hại.
16- Phương liễu tú công phu 妨了繡功夫: làm hỏng mất (làm lỡ mất) công việc thêu thùa.
17- Chẩm sinh 怎生 = chẩm dạng 怎樣: thế nào.

Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu Nam ca tử của Âu Dương Tu.
Búi tóc hình chim phụng hoàng, cột tóc bằng dây lụa mạ vàng,
Cái lược ngọc cỡ bằng bàn tay có chạm hoa văn hình con rồng.
Đi đến cửa sổ, cười và dìu nhau (quàng tay ôm chồng).
Thân thiết nói Mi thiếp vẽ đậm hay nhạt, hợp thời không?

Cầm bút lên, dựa người (vào chồng) hồi lâu,
Thử vẽ hoa lần đầu.
Tùy tiện làm đam ngộ công việc thêu thùa.
Cười nói hai chữ uyên ương viết thế nào?


Phỏng Dịch

1 Nam Ca Tử - Uyên Ương

 

Dây dát vàng búi tóc,

Vằn vè cây lược tay.

Dưới song bước đến khoác vai cười.

Âu yếm hỏi mi đậm nhạt, có theo thời?

 

Đứng dựa chồng khoa bút,

Lần đầu vẽ thử tài.

Thêu thùa bị hại tại do lười.

Cười hỏi uyên ương hai chữ, viết không sai?

 

2 Uyên Ương

Búi tóc kiểu chim phụng,
Cột thêm dải lụa vàng.
Chạm rồng cây lược ngọc,
Dáng dấp bàn tay nàng.

Dìu bước đến bên song,
Làn mi mới vẽ xong.
Nói rằng mầu đậm nhạt,
Có hợp thời hay không?

Dựa lưng chàng chốc lát,
Cầm bút vẽ cành hoa,
Lần đầu thiếp bỏ dở,
Việc chỉ kim thêu thùa.

Vừa cười vừa hỏi,
Người yêu mến hỡi.
Hai chữ uyên ương,
Đẹp như mong đợi?

HHD 9-2019

Bản Dịch của Lộc Bắc

Nam Ca tử

1-               

Thoa phụng, vàng dát lụa

Lược ngọc tay chạm rồng

Đi đến dưới song quàng lưng chồng

Thương nói vẽ mày đậm nhạt, hợp thời không?

 

Dựa hồi lâu nâng bút

Lần đầu vẽ hoa hồng

Tùy tiện để thêu thùa tạm ngưng

Cười hỏi viết thế nào hai chữ uyên ương 

 

2-     

Thoa phụng, lụa cột tóc

Chạm rồng cây lược ngọc

Đi đến cửa song tay áp lưng chồng

Hỏi yêu: mi đậm nhạt, hợp thời không?

 

Dựa hồi lâu nâng bút

Vẽ hoa lần thứ nhất

Tùy tiện kim chỉ cất, thêu tạm ngưng

Hỏi cười: sao viết, hai chữ uyên ương?

 

LB  Aout20