Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Monday, July 30, 2018

Sư Sư Lệnh - Trương Tiên

Từ gia Trương Tiên sáng tác ra từ điệu "sư sư lệnh" để tưởng niệm một cô ca kỹ xinh đẹp có tên là "Sư Sư" đã ra đi lúc tuổi đương xuân. Dĩ nhiên vị này không phải là Lý Sư Sư nổi tiếng thời Bắc Tống vì Lý Sư Sư thành danh trong khoảng từ năm 1111 về sau và bà mất tích sau cơn binh biến năm 1127. Còn Trương Tiên mất năm 1078 lúc đó ông đã hơn 80 tuổi thì đương nhiên ông không còn sống để thưởng thức tài nghệ của Lý Sư Sư.

師師令 - 張先  Sư sư lệnh  -  Trương Tiên

香鈿寶珥Hương Điền Bảo Nhĩ

 

香鈿寶                           Hương Điền Bảo Nhĩ

拂菱花如                       Phất lăng hoa như thủy.

學妝皆道稱時宜,              Học trang giai đạo xứng thời nghi,

粉色有、天然春          Phấn sắc hữu, thiên nhiên xuân ý.

蜀綵衣長勝未              Thục thải y trường thắng vị khởi.

縱亂雲垂                       Túng loạn vân thùy địa.

 

都城池苑誇桃              Đô thành trì uyển khoa đào lý.

問東風何                       Vấn đông phong hà tự.

不須回扇障清歌,              Bất tu hồi phiến chướng thanh ca,

脣一點、小於珠          Thần nhất điểm, tiểu ư châu nhụy.

值殘英和月              Chính trị tàn anh hòa nguyệt trụy.

寄此情千                       Ký thử tình thiên lý.

Chú Thích
1-  Sư sư lệnh: tên từ điệu, gồm 2 đoạn, 73 chữ, mỗi đoạn có 6 câu và 5 trắc vận. Cách luật:

 

B B T T vận

T B B B T vận

T B B T T B B cú

T T T, B B B T vận

T T B B B T T vận

T T B B T vận

 

B B B T B B T vận

T B B B T vận

T B B T T B B cú

B T T, T B B T vận

T T B B B T T vận

T T B B T vận

B: bình thanh; T: trắc thanh; cú: hết câu; vận: vần

2- Hương điền 香鈿: trang sức của phụ nữ thời xưa đeo trên trán.
3- Bảo nhĩ 寶珥: bông tai quý của phụ nữ.
4- Lăng hoa 菱花 = lăng hoa kính 菱花镜: thời xưa dùng miếng đồng đánh bóng làm kính, hình lục lăng, bát giác...hay bặt lưng có khác hình lăng hoa (hoa súng, hoa cây củ ấu)
5- Thời nghi 時宜: những thứ cần yếu hay ưa chuộng đương thời.
6- Phấn sắc 粉色: chỉ mỹ lệ, khả ái.
7- Thục thải 蜀彩: = Thục cẩm đích sắc thải 蜀锦的色彩: Sắc mầu của gấm lụa Tứ Xuyên hoặc chỉ những mầu sắc tươi sáng đẹp đẽ.
8- Thắng : trang sức trên đầu của phụ nữ thời xưa, như hoa thắng 花勝,Thải thắng 彩勝.
9- Túng : buông thả.
10- Loạn vân : ám chỉ mái tóc của nàng Sư Sư.
11- Trì uyển 池苑: khu vườn hay rừng có ao hồ hoa hủy.
12- Đông phong 東風: gió xuân.
13- Hà tự 何似: = Như hà 如何: làm sao, làm thế nào.
14- Hồi phiến 回扇: bỏ cái quạt múa đi.
15- Thanh ca 清歌: giọng ca trong trẻo. Chướng : ngăn cản.
16- Thần nhất điểm 脣一點: đôi môi nhỏ nhắn.
17- Châu nhụy 珠蕊: nhụy hoa bằng ngọc (lời sáo ngữ tâng bốc cái nhụy hoa). Bản khác chép châu tử 珠子: viên ngọc trai.
18- Chính trị 正值: chính gặp lúc. Bản khác chép chính thị 是:chính là.
19- Tàn anh 殘英: chỉ cái hoa đã tàn nhưng chưa rụng hoặc chỉ hoa đã tàn rụng.
20- Nguyệt trụy 月墜: trăng rụng, trăng tàn không còn sáng đẹp ở trên không.
21- Tàn anh nguyệt trụy: 殘英月墜: chỉ người phụ nữ qua đời.

Dịch Nghĩa
Vật trang sức đeo trên trán, bông tai quý.
Lau cái gương đồng sáng như nước. (ngồi trước gương trang điểm)
Mọi người đều khen phục sức hơp thời trang.
Nhan sắc đầy vẻ ý vị mùa xuân của thiên nhiên.
Áo gấm mầu, trang sức dài cắm trên đầu chưa đứng dậy (ra khỏi phòng)
Đám mây linh loạn đầy trời như chạm xuống mặt đất.

Vườn hoa ao hồ trong đô thành khoe hoa đào hoa mận.
Hỏi gió xuân thế nào?
Không nên bỏ quạt múa ngăn giọng hát hay. (không còn múa hát)
Môi hồng nhỏ, nhỏ hơn nhụy hoa bằng ngọc.
Chính lúc hoa tàn trăng rụng (ám chỉ người phụ nữ qua đời)
Tình này gửi đến ngàn dặm.

Từ câu" Hỏi gió xuân...": Hỏi mệnh vận tại sao lại cướp đi một hoa khôi đương xuân, múa giỏi hát hay. Trương Tiên gửi tình của ông đi đâu? phải chăng gửi tới mỹ nhân có đôi môi anh đào nhỏ hơn viên ngọc.

Phỏng Dịch

Hương Điền Bảo nhĩ

Hoa tai ngọc quý soi mầu nước,
Gương sáng lăng hoa ngồi điểm trang.
Phục sức hợp thời khen mấy kẻ,
Thiên nhiên nhan sắc ý xuân sang.

Y thường gấm vóc hoa phục sức,
Chạm đất tung buông làn tóc mây.
Thành thị ao vườn đào lý sắc,
Gió xuân, xin hỏi vì sao đây?

Không nên ngừng quạt ngăn ca hát,
Môi thắm bé xinh tựa ngọc trai.
Nguyệt khuyết tàn anh bao luyến tiếc,
Tình này ngàn dặm gửi về ai!

HHD 7-2018



Hương Điền Bảo Nhĩ
1-

Vật trân bông quý
Gương đồng lau thật kỹ
Người khen phục sức hợp thời trang
Nhan sắc tự nhiên xuân đượm ý
Gấm mặc, trâm cài chưa ngưng nghỉ
Đất chạm mây phỉ chí

Ao vườn đô thành khoe đào lý
Hỏi gió xuân sao nhỉ?
Chẳng nên buông quạt, dứt lời ca
Nhỏ như nhụy ngọc, môi cắn chỉ
Là lúc hoa tàn theo trăng lụy
Tình này gởi thiên lý!

2-
Hoa dắt vòng đeo châu ngọc quý
Trước gương chăm chú nét điểm trang
Hợp thời y phục lắm người khen
Nhan sắc tự nhiên xuân mời mọc

Chưa dứt trâm cài, vận gấm vóc
Chao đảo bầu trời mây chạm đất
Đô thành đào lý khoe sắc hương
Xin hỏi gió xuân vì sao nhắc?

Chẳng nên buông quạt, ngưng ca hát
Môi cười chúm chím như hạt châu
Là lúc hoa tàn, trăng ly biệt
Ngàn dặm gởi ai một mối sầu!!
Lộc Bắc
Aug2018








Sunday, July 29, 2018

Cổ Biệt Ly - Mạnh Giao


古別離  -  孟郊       Cổ Biệt Ly  -  Mạnh Giao
欲別牽郎衣,    Dục biệt khiên lang y,
郞今到何處?    Lang kim đáo hà xứ?
不恨歸來遲,    Bất hận quy lai trì,
莫向臨邛去。    Mạc hướng Lâm Cùng khứ.

Dịch Nghĩa
(Biệt Ly Xưa
(Sắp biệt ly thì kéo áo chàng,
(Chàng nay đến nơi nào?
(Không hận khi chàng về muộn,
(Đừng đến chốn Lâm Cùng*.)

* Lâm Cùng: thuộc tỉnh Tứ Xuyên, TH, nơi Tư Mã Tương Như gặp Trác Văn Quân. Hai người trốn nhà đi lập tổ uyên ương ở Thành Đô, TH.

Phỏng Dịch
Biệt Ly Xưa
Anh đi em kéo áo,
Anh đến chốn nào đây?
Không hận anh về muộn,
Lâm Cùng chớ vui vầy!
HHD

Cổ Biệt Ly
Dợm đi, kéo áo chàng
Giờ chốn nao ghé lại?
Chẳng hận về trễ tràng
Lâm Cùng đừng đến đấy!
(LB)

Tống Biệt - Vương Duy

送別  -  王維   Tống Biệt  -  Vương Duy

下馬飲君酒,Hạ mã ẩm quân tửu,
問君何所之。Vấn quân hà sở chi.
君言不得意,Quân ngôn bất đắc ý,
歸臥南山陲。 Quy ngọa Nam sơn thùy.
但去莫複問,Đản khứ mạc phức vấn,
白雲無盡時。 Bạch vân vô tận thì.

Chú Thích
1- Ẩm quân tửu: mời anh uống rượu. Chữ ẩm ở đây có nghĩa là mời uống.
2- Hà sở chi: đi đến đâu. Chi ở đây có nghĩa là đi.
3- Quy ngọa: ẩn cư.
4- Đản: chỉ.
5- Mạc phức vấn: không hỏi nữa. Phức: nhiều lần.

Dịch Nghĩa
Bài thơ Tống biệt của Vương Duy
(Cổ thi ngũ ngôn thường có khi vi phạm luật bằng trắc giữa các khổ. Thí dụ như những câu: "Đản khứ mạc phức vấn", "Lang kim đáo hà xứ".
(Mời anh) xuống ngựa uống (chén) rượu,
Hỏi anh (muốn) đi đâu.
Anh nói (vì sinh hoạt) bất đắc ý,
Về (quê) ẩn cư ở cạnh Nam sơn.
(Anh) cứ đi thôi, (tôi) không hỏi nữa,
(Nhìn) mây trắng bay liên miên.

Phỏng Dịch

Tống Biệt

Xuống ngựa uống ly rượu,
Anh nay về chốn nao?
Chỉ vì bất đắc ý,
Quy ẩn núi Nam sâu.
Không quấy rầy anh nữa,
Mây bay trắng một mầu.

HHD 7-2018

TỐNG BIỆT_VƯƠNG DUY

Xuống ngựa mời sơi rượu
Nay muốn về chốn nao?
Anh nói không vừa ý
Qui ẩn núi Nam cao
Đi thôi, không hỏi nữa
Vô tận mây trắng phau!!!
Lộc Bắc

Jul2018



Wednesday, July 25, 2018

Tử Dạ Ca - Lý Dục

子夜歌 - 李煜  Tử Dạ Ca - Lý Dục

 

人生愁恨何能     Nhân sinh sầu hận hà năng miễn?

銷魂獨我情何     Tiêu hồn độc ngã tình hà hạn!

故國夢重             Cố quốc mộng trùng quy,

覺來雙淚             Giác lai song lệ thùy!

 

高樓誰與             Cao lâu thùy dữ thượng?

長記秋晴             Trường ký thu tình vọng.

往事已成             Vãng sự dĩ thành không,

還如一夢             Hoàn như nhất mộng trung.

 

Chú Thích

1- Tử dạ ca 子夜歌: tên từ bài do Lý Dục đặt cho từ điệu Bồ Tát man, gồm 44 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn có 2 trắc vận, 2 bình vận. Cách luật:

 

Câu 1 và 2 có vận trắc, mỗi câu có 7 chữ.

X  B  X  T  B  B  T (vận),

B  B  T  T  B  B  T (vận).

         Câu 3 và 4 có vận bằng, mỗi câu có 5 chữ.

T  T  T  B  B (đổi vận),

T  B  B  T  B (vận).

         Câu 5 và 6 có vận trắc, mỗi câu có 5 chữ.

X  B  B  T  T (đổi vận),

X  T  B  B  T (vận).

          Câu 7 và 8 có vận bằng, mỗi câu có 5 chữ,

X  T  T  B  B (đổi vận), 

X  B  X  T  B (vận).

 

X = bất luận; B = bình thanh; T = trắc thanh.  

          Sau mỗi 2 câu phải đổi vận.

 

2- Hà năng 何能: sao có thể; Miễn: miễn trừ, tiêu trừ.

3- Tiêu hồn 銷魂 = Tiêu hồn 消魂: ý nói buồn muốn chết đi được.

4- Hà hạn 何限:vô hạn.

5- Cố quốc mộng trùng quy 故國夢重歸:ý nói trong mộng về đến cố quốc.

6- Giác lai 覺來: tỉnh lại.

7- Thùy dữ 誰與: cùng với ai.

8- Trường ký 長記: mãi mãi ghi nhớ.

9- Thu tình 秋晴: trời thu trong sáng. (trong thời quá khứ của Lý Dục)

10- Hoàn như 還如: vẫn như.

 

Dịch Nghĩa

Từ điệu Tử Dạ Ca.
Sầu hận của đời người làm sao có thể tiêu trừ được.
Chỉ có mình tôi thương tâm không thôi, bi tình vô hạn.
Trong mộng tôi thấy mình lại về cố quốc.
Tỉnh lại hai hàng nước mắt tuôn.
Có ai cùng tôi lên lầu cao.
Tôi luôn luôn ghi nhớ một khung trởi thu trong sáng (nơi cố quốc), trên lầu cao nhìn xa.
Chuyện cũ đã thành không.
Còn như trong mộng thôi.

Phỏng Dịch

Tử Dạ Ca - Nhân Sinh Sầu Hận

Đời người sầu hận sao tiêu tán?
Mình ta hồn nát buồn vô hạn.
Trong mộng về quê xưa,
Tỉnh ra lệ xóa mờ.

Ai cùng ta cất bước?
Nhớ mãi mùa thu trước.
Chuyện cũ đã thành không,
Còn như một giấc nồng.

HHD 7-2018

Bản Dịch của Lộc Bắc

Tử Dạ Ca – Lý Dục
1-
Sầu hận đời người sao tiêu tán?
Hồn nát mình ta buồn vô hạn
Quê hương giấc mộng vàng
Tỉnh giấc lệ hai hàng

Cùng ai lên lầu vắng
Khắc ghi sầu tình vọng
Chuyện cũ đã thành không.
Vẫn y giấc mộng lòng.
2-
Đời người sầu hận sao nguôi
Mình ta hồn nát, tơi bời ruột gan
Về thăm quê cũ mộng vàng
Tỉnh ra tuôn lệ hai hàng rưng rưng

Cùng ai lầu vắng mấy từng
Trời thu quê cũ mịt mùng ngóng trông
Chuyện xưa giờ đã hóa không
Vẫn y cơn mộng chốc mòng xót xa!
Lộc Bắc
Jul2018


Sunday, July 15, 2018

Nhạc Phổ


一剪梅 Nhất Tiễn Mai


上海滩 Thượng Hải Than

五百年桑田沧海    ngũ bách niên Tang Điền Thương Hải

倩女幽魂 Thiện Nữ U Hồn


千言萬語 Thiên Ngôn Vạn Ngữ


半壶纱 Bán Hồ Sa


敢问路在何方 Cảm Vấn Lộ Tại Hà Phương

新鸳鸯蝴蝶梦 Uyên Ương Hồ Điệp Mộng

星语心愿  Tinh Ngữ Tâm Nguyện











Saturday, July 14, 2018

Ngu Mỹ Nhân - Lý Dục

虞美人 - 李煜 1 Ngu Mỹ Nhân - Lý Dục
春怨 Xuân oán

風回小院庭蕪              Phong hồi tiểu viện đình vu lục,

柳眼春相                       Liễu nhãn xuân tương tục.

憑闌半日獨無              Bằng lan bán nhật độc vô ngôn,

依舊竹聲新月似當      Y cựu trúc thanh tân nguyệt tự đương niên.

 

笙歌未散尊罍              Sinh ca vị tán tôn lôi tại,

池面冰初                       Trì diện băng sơ giải.

燭明香暗畫堂              Chúc minh hương ám họa đường thâm,

滿鬢青霜殘雪思難      Mãn mấn thanh sương tàn tuyết tứ nan nhâm.


Chú Thích
1- Ngu Mỹ Nhân 虞美人: tên từ điệu gồm 56 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn 4 câu có 2 trắc vận và 2 bình vận. Cách luật:

X  B  X  T  B  B  T  vận                                  
X  T  B  B  T vận
X  B  X  T  T  B  B đổi B v
ận
X  T  X  B  B  T  T  B  B vận
 

X  B  X  T  B  B  T đổi T vận
X  T  B  B  T vận
X  B  X  T  T  B  B đổi B vận
X  T  X  B  B  T  T  B  B vận

 X: bất luận, B: bình thanh; T: trắc thanh.

2- Phong = xuân phong.
3- Đình vu 庭蕪: cỏ mọc trong vườn.
4- Liễu nhãn 柳眼: con mắt mới ngủ dậy trông như lá liễu; chữ này cũng ám chỉ lá liễu non.
5- Bằng lan 憑闌: dựa vào lan can.
6- Trúc thanh 竹聲: âm thanh của nhạc khí chế từ cây trúc như tiêu, sáo. Cũng có người cho rằng trúc thanh là do gió thổi vào bụi trúc gây nên. Thí dụ như câu: "Phong lai sơ trúc, phong khứ nhi trúc bất lưu thanh 来疏竹,去而竹不留 = gió thổi qua khóm trúc thưa, gió đi qua rồi, khóm trúc không còn lưu giữ âm thanh của gió."
7- Tân nguyệt 新月: trăng mới mọc.
8- Sênh ca 笙歌: tấu nhạc ca hát.
9- Tôn lôi 尊罍 = lôi tôn 罍尊: chén uống rượu. Tôn lôi tại: ý nói yến tiệc chưa tan. Bản khác chép "Tôn lôi tiền ".
10- Trì diện băng sơ giải 池面冰初解: băng trên mặt nước mới bắt đầu tan chảy, ám chỉ mới sang xuân.
11- Hương ám 香暗= hương thơm thoang thoảng do xông gỗ thơm trong lư hương. Chúc minh hương ám 燭明香暗: ám chỉ đêm đã về khuya.
12- Họa đường: căn nhà hoa lệ. Bản khác chép: họa ca , họa lâu , họa lan ...
13- Thanh sương tàn tuyết 青霜殘雪: tóc đã đổi trắng như sương tuyết.
14- Tư nan nhâm 思難任: ưu tư không chịu đựng nổi. Bản khác chép "Tư nan câm " cùng 1 ý nghĩa.

Dịch Nghĩa
Từ điệu Ngu Mỹ Nhân của Lý Dục.
Xuân oán.
Gió xuân đã thổi về, cỏ trong sân vườn nhỏ đã mọc xanh.
Cây liễu đã mọc lá non, xuân này nối tiếp xuân kia đến.
Một mình đứng tựa lan can, nửa ngày không nói 1 câu.
Tiếng tiêu (hoặc tiếng trúc xào xạc) và vầng trăng mới mọc y như năm xưa.
Âm nhạc chưa tàn, chén rượu (yến tiệc) hãy còn.
Lớp băng trên mặt hồ mới tan.
Nến thắp sáng, ám hương thơm trong căn nhà hoa lệ đã về khuya.
Đầy mái tóc điểm sương tàn tuyết (ta đã già rồi) không chịu đựng được ưu tư.

Phỏng Dịch


1 Ngu Mỹ Nhân - Xuân oán

  

Gió vờn viện nhỏ vườn xanh thắm,

Lá liễu xuân say đắm.

Nửa ngày dựa cửa chẳng nên lời,

Năm ấy trúc thanh trăng mới mọc lưng trời.

 

Tiếng ca chưa dứt ly chưa cạn,

Hồ nước băng vừa rạn.

Ánh đèn hương ám chốn phòng sâu,

Mái tóc điểm sương pha tuyết ý vương sầu.

 

2 Xuân Oán

 

Vườn nhỏ gió về cỏ mướt xanh,

Xuân đi xuân đến liễu đâm nhành.

Lan can tựa mỏi âm thầm ngắm,

Trăng mới như xưa tiếng trúc thanh.

 

Sênh ca chưa dứt rượu chưa vơi,

Băng giá mặt hồ đã rạn rời.

Hương nến đêm tàn hoa lệ các,

Tóc cằn sương tuyết ý tơi bời.

HHD 7-2018


Bản Dịch của Lộc Bắc

Ngu mỹ nhân kỳ 1 - Lý Dục

Gió qua gác nhỏ, đình xanh cỏ.
Mắt liễu xuân tiếp ngỏ
Một mình hiên tựa nửa ngày im
Trăng khuyết trúc xanh như cũ nét cổ kim

Bên chén rượu sênh ca chưa dứt
Mặt hồ băng vừa nứt
Lầu cao đuốc sáng tỏa hương ngầm
Tóc phủ tuyết tan sương mỏng ý khôn cầm

Lộc Bắc
Jul2018

--------------------

   -     2  Ngu Mỹ Nhân - Lý Dục

(南唐後主Nam Đường Hậu Chủ)


春花秋月何時     Xuân Hoa Thu Nguyệt hà thời liễu,

往事知多             Vãng sự tri đa thiểu.
小樓昨夜又東     Tiểu lâu tạc dạ hựu đông phong,

故國不堪回首月明Cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt minh trung.


雕闌玉砌應猶              Điêu lan ngọc thế ưng do tại,

只是朱顏                      Chỉ thị chu nhan cải.
問君能有幾多              Vấn quân năng hữu kỷ đa sầu,

恰似一江春水向東Kháp tự nhất giang xuân thủy hướng đông lưu.

Chú Thích

1- Bài từ theo điệu Ngu Mỹ Nhân 虞美人của Nam Đường Hậu Chủ có 56 chữ, chia làm 2 đoạn, mỗi đoạn có 4 câu, 2 trắc vận chuyển qua 2 bình vận, sắp xếp như sau: 

X  B  X  T  B  B  T  vận                                  
X  T  B  B  T vận
X  B  X  T  T  B  B đổi B v
ận
X  T  X  B  B  T  T  B  B vận
 

X  B  X  T  B  B  T đổi T vận
X  T  B  B  T vận
X  B  X  T  T  B  B đổi B vận
X  T  X  B  B  T  T  B  B vận

X: bất luận, B: bình thanh; T: trắc thanh. 

2- Liễu了:xong, hết, kết thúc.

3- Cố quốc 故国:chỉ nước Nam Đường cũ, đô là Kim Lăng (nay là Nam Kinh 南京)

4- Thế 砌:Thềm nhà; Điêu lan ngọc thế 雕闌玉砌:chỉ cố cung của nước Nam Đường.

5- Ưng do 應猶:hẳn là; bản khác chép y nhiên 依然.

6- Chu nhan 朱颜: Chỉ các loại sắc mặt, tươi sáng, vui mừng, trẻ trung, đẹp đẽ v.v. Chu nhan cải 朱颜改: câu này có thể nói chính nét mặt của tác giả đã già đi hoặc những người mà tác giả tưởng nhớ nay đã già rồi. Hoặc chăng nữa câu này muốn nói đến những cung nữ ngày xưa của nước Nam Đường.

7- Quân : tác giả tự xưng. Chữ năng : có thể. Có bản khác chép là đô , na , hoàn , khước .

8- Kháp tự 恰似: vừa như.

 

Dịch Nghĩa

Bài từ theo điệu Ngu Mỹ Nhân của Nam Đường Hậu Chủ (Lý Dục)

Hoa xuân trăng thu bao giờ hết,

(Người chán đời không thiết gì đến những cảnh đẹp)

Chuyện cũ biết bao nhiêu.

Căn gác nhỏ đêm qua có gió đông,

Nước cũ không dám nhìn lại dưới ánh trăng.

Cột trạm trổ, thềm ngọc hẳn vẫn còn,

Chỉ dung nhan là thay đổi.

Hỏi anh có được bao nhiêu nỗi buồn,

(Những nỗi buồn của tôi)Vừa bằng nước một dòng sông chảy về hướng đông.

 

Phỏng Dịch

 

1 Ngu Mỹ Nhân - Nhớ Xưa

 

Hoa xuân thu nguyệt bao giờ hết,

Chuyện cũ nhiều khôn xiết.

Đêm qua gác xép nổi đông phong,

Cố quốc lòng nào nhìn lại dưới trăng trong.

 

Cột lan thềm ngọc như còn đấy,

Thay đổi chu nhan ấy.

Hỏi anh sầu tủi có nhiều không?

Ngang với một dòng xuân chẩy mãi về đông.

 

2 Nhớ Xưa

 

Trăng thu rồi lại hoa xuân,

Bao giờ mới hết xoay vần quẩn quanh?

 

Dâng tràn quá khứ bao tâm sự,

Gác xép đêm qua ngập gió đông.

Cố quốc ngậm ngùi đời viễn xứ,

Gục đầu lặng lẽ dưới trăng trong.

 

Thềm ngọc lâu đài hẳn vẫn còn,

Dung nhan tiều tụy với thời gian.

Hỏi anh ôm ấp bao sầu nhớ,

Như nước dòng xuân cuồn cuộn đông.

 

HHD 12-29-12


NGU MỸ NHÂN

 

    Trăng thu vừa tàn hoa xuân nở

    Chuyện đời nào phải một bài thơ

    Gió đông thổi về căn gác nhỏ

    Cố quốc nhạt phai dưới trăng mờ

 

     Lâu đài, điện ngọc, những ước mong

     Nhan sắc người xưa, nát cõi lòng

     Hỏi chàng: Có phải sầu lữ thứ

     Theo giòng nước chảy mãi về đông!

                                    Bắc Giang phỏng dịch 2012

 


Ngu C
ơ

 

Hoa xuân, thu nguyệt khi nao dứt

Chuyn xưa biết ít nhiu

Đêm qua gác nh đông phong ghé

Nước cũ - khôn kham ngó li dưới trăng xiêu

Hiên lng, ngc miêu còn lưu li

Đi thay ch má hng

Hi chàng su mun bao nhiêu ni

Thun chiu - ging như sông nước chy v Đông!


**

Xuân hoa, thu nguyt bao gi dt

Chuyn xưa thu hiu được đôi điu

Đêm qua gác nh đông phong ghé

Nước cũ không màng ngoái c liu

Hiên lng, ngc thm còn lưu li

Má hng thay đi dưới trăng xiêu

Hi chàng su mun bao nhiêu ni

V Đông sông chy thun theo chiu!

Phng dch Lc Bc

30/12/2012