Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Monday, December 17, 2018

Ứng Thiên Trường - Vi Trang


應天長  韋莊     Ứng Thiên Trường - Vi Trang
kỳ 1
綠槐陰裡黃鶯Lục hoè âm lý hoàng oanh ngữ,
深院無人春晝Thâm viện vô nhân xuân trú ngọ.
畫簾垂,                      Họa liêm thùy,
金鳳                      kim phụng vũ,
寂寞繡屏香一Tịch mịch tú bình hương nhất chú.

碧天雲,                      Bích thiên vân,
無定                      Vô định xứ,
空有夢魂來         Không hữu mộng hồn lai khứ.
夜夜綠窗風         Dạ dạ lục song phong vũ,
斷腸君信             Đoạn trường quân tín phủ.

kỳ 2
別來半歲音書Biệt lai bán tuế âm thư tuyệt,
一寸離腸千萬Nhất thốn ly trường thiên vạn kết.
難相見,                      Nan tương kiến,
易相                      Dị tương biệt,
又是玉樓花似Hựu thị ngọc lâu hoa tự tuyết.

暗相思,                      Ám tương tư,
無處                      Vô xứ thuyết,
惆悵夜來煙         Trù trướng dạ lai yên nguyệt.
想得此時情         Tưởng đắc thử thời tình thiết,
淚沾紅袖             Lệ triêm hồng tụ uất.

Chú Thích
1- Ứng thiên trường: Tên từ điệu gồm 50 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn 4 trắc vận.
Hai bài từ này nằm trong loạt bài thương nhớ người yêu của Vi Trang. Có người cho rằng ông làm để tưởng nhớ khi xa cách quân vương là sai.
2- Xuân trú ngọ 午:Ngày mùa xuân lúc giữa trưa. 
3- Họa liêm: màn hoa.
4- Kim phụng vũ舞:Chim phụng vàng vẽ trên màn, gió thổi vào màn, hình chim như nhẩy múa. 
5- Tú bình: bình phong thêu tranh hoặc bức họa thêu, bức họa hoa lệ.
6- Hương nhất chú 香一炷:một cây nhang, 1 cây hương.
7- Bích thiên vân 碧天云:ám chỉ người mình đang tưởng nhớ.
8- Không định xứ: không biết ở nơi đâu.
9- Không hữu mộng hồn lai khứ: người chưa về, chỉ trong giấc mộng thấy đi lại.
10- Lục song 绿窗:cửa sổ hoa lệ.
11- tín = tương tín 相信: tin. Quân tín phủ 君信: anh có tin không? ý nói chỉ có anh hiểu được nỗi đau lòng của tôi.

12- ThưToàn Đường Thi chép là "Tín : thư tín”。
13- Ly trường離腸nỗi buồn vì biệt ly.
14- Kết 结:cấu thành.
15- Nhất thốn ly trường thiên vạn kết : chỉ  1 mối ly sầu nhỏ cũng đúc kết thành thiên vạn mối sầu tình.
16- Ngọc lâu tức là khuê lâu: nơi phụ nữ ở.
17- Hoa tự tuyết 花似雪:hoa lê như tuyết trắng, ám chỉ thời tiết cuối xuân.
18- Yên nguyệt 烟月:ánh trăng mông lung.
19- Hồng tụ 红袖:Tay áo phụ nữ thường có mầu đỏ.
20- Uất 黦:mầu đen vàng, ám chỉ những đốm nước mắt trên tay áo.

Dịch Nghĩa
kỳ 1
Chim oanh vàng hót trong bóng cây hòe xanh,
Trong nhà sâu kín không có người, lúc chính ngọ ngày xuân.
Màn hoa buông xuống,
(Hình) chim phụng trên màn hoa nhẩy múa (theo gió thổi)
Bình phong tịch mịch, một cây nhang (hương) (đang cháy, nhả hương thơm)
Mây trên trời xanh (ám chỉ người mình đang tưởng nhớ)
Không ở nơi nào nhất định,
Chỉ ở trong mộng đi lại với nhau
Đêm đêm trước song cửa gió mưa.
Lòng buồn tan nát người tin chăng?

kỳ 2
Từ sau lúc ly biệt đã nửa năm tin tức tuyệt không.
Một tấc lòng buồn vì ly biệt kết thành vạn ngàn mối.
Khó gặp nhau,
Dễ xa nhau.
Lại đến (mùa xuân) nơi khuê phòng hoa trắng như tuyết.
Tương tư âm thầm,
Không nơi nào để nói ra (không nói với ai được).
Đêm đến ánh trăng mông lung đầy thương cảm.
Nghĩ đến tình cảm tha thiết lúc này,
Lệ rơi thấm ướt tay áo hồng hoá thành đen.


Phỏng Dịch
kỳ 1

1

Cây hòe xanh bóng mát,

Có tiếng hót chim oanh.

Chính ngọ trong thâm viện,

Ngày xuân người vắng tanh.

 

Buông thả màn hoa lệ,

Phụng vàng theo gió lay.

Bình phong thêu tịch mịch,

Khói nhẹ nhánh hương bay.

 

Người yêu hỡi chốn nào?

Hồn mộng tìm theo nhau.

Ngoài cửa đêm mưa gió,

Đau lòng người biết đâu.

 

2


Hoàng anh ríu rít trên cây xanh,
Chính ngọ viện sâu người vắng tanh.
Màn hoa buông thả phụng vàng múa,
Tịch mịch bình phong khói uốn quanh.

Trời mây thắm biếc người đâu tá?
Chỉ thấy triền miên giấc mộng dài.
Song cửa đêm đêm mưa gió bạo,
Tâm hồn tan nát biết chăng ai?

kỳ 2

Ngăn cách nửa năm tin nhạn vắng,
Biệt ly ngàn vạn mối u sầu.
Lìa xa dễ mấy tương phùng khó,
Lại đến xuân khuê hoa trắng phau.
  
Tương tư ôm ấp ngỏ cùng ai?
Đêm đến khói trăng thương cảm đầy.
Thời khắc thiết tha trong nỗi nhớ,
Áo hồng thấm đậm lệ tình hoài.

HHD 12-2018


Tuesday, December 4, 2018

Hà Diệp Bôi - Vi Trang

荷葉杯 - 韋莊    Hà Diệp Bôi - Vi Trang

記得那年花,            Ký đắc na niên hoa hạ,
,                           Thâm dạ,
初識謝孃.                Sơ thức Tạ nương thì.
水堂西面畫簾,        Thủy đường tây diện họa liêm thùy,
攜手暗相.                Huề thủ ám tương kỳ.

惆悵曉鶯殘,            Trù trướng hiểu oanh tàn nguyệt,
,                           Tương biệt,
從此隔音.                Tùng thử cách âm trần.
如今俱是異鄉,         Như kim câu thị dị hương nhân,
相見更無.                Tương kiến cánh vô nhân.

 Chú Thích
1- Hà diệp bôi 荷葉杯: tên từ điệu gồm 51 chữ, có 2 đoạn, mỗi đoạn có 5 câu, 2 trắc vận và 3 bình vận.
2- Hoa hạ 花下: dưới hoa, dưới giàn hoa, trong khóm hoa.
3- Tạ nương 謝孃 = 謝娘:chỉ người phụ nữ có văn tài. Nguyên bà Tạ Đạo Uẩn 謝道韞, vợ của Tấn Vương Ngưng 晋王凝 là người có văn tài. Về sau những người phụ nữ nào có văn tài thì được người đời gọi là Tạ Nương.
4- Thủy đường 水堂:nhà gần ao hồ. Bản khác chép tiểu đường 小堂= nhà nhỏ.
5- Họa liêm 畫簾: rèm hoa.
6- Tương kỳ 相期:hẹn hò với nhau.
7- Tàn nguyệt 残月: trăng sắp lặn.
8- Âm trần 音塵:tin tức. Cách âm trần 隔音塵 = tin tức doạn tuyệt
9- Nhân 因:lý do, duyên do. Trong bài này có nghĩa là "cơ hội".

Dịch Nghĩa
Nhớ được dưới hoa năm đó
Đêm khuya
Lúc mới biết Tạ cô nương
Ở phía Tây nhà gần hồ, rèm hoa buông xuống.
Nắm tay ngầm hẹn hò với nhau.
Ngao ngán (vì không muốn biệt ly nhưng vẫn phải chia tay) (không hay không biết) trăng đã xế và chim oanh đã hót lúc sáng sớm. 
Từ biệt nhau
Từ đấy bặt tin tức.
Như nay đều là người khác quê (người xa lạ)
Không có duyên do gì thấy nhau nữa (Không có dịp gặp nhau)

Phỏng Dịch

1 Hà Diệp Bôi – Giã Biệt

 

Dưới khóm hoa xưa còn nhớ,

Đêm đó,

Vừa biết Tạ cô nương.

Cửa tây màn rủ chốn thâm đường,

Hẹn ước mãi yêu thương.

 

Oanh hót nguyệt tàn tha thiết,

Ly biệt,

Từ đó vắng tin người.

Nay thành quê lạ khác khung đời,

Mong gặp quá xa xôi.


2 Giã Biệt


Còn nhớ năm xưa dưới khóm hoa,
Gặp người tài mạo lúc canh tà.
Cửa tây thủy tạ rèm buông thả,
Hẹn ước trong tay không cách xa.

Oanh hót trăng tàn trời vội sáng,
Biệt ly từ đó vắng tin người.
Đến nay đã hóa thành xa lạ,
Gặp gỡ mong chi trên cõi đời.

HHD 12-2018



Monday, December 3, 2018

Nữ Quan Tử - Vi Trang

女冠子 - 韋莊  Nữ Quan Tử - Vi Trang

其一                    Kỳ 1
四月十        Tứ nguyệt thập thất,
正是去年今Chính thị khứ niên kim nhật,
別君            Biệt quân thì.                         
忍淚佯低面,    Nhẫn lệ dương đê diện,
含羞半斂    Hàm tu bán liễm mi.

不知魂已斷,    Bất tri hồn dĩ đoạn,
空有夢相    Không hữu mộng tương tùy.
除卻天邊月,    Trừ khước thiên biên nguyệt,
沒人            Một nhân tri.

其二                    Kỳ 2
昨夜夜        Tạc dạ dạ bán,
枕上分明夢Chẩm thượng phân minh mộng kiến.
語多            Ngữ đa thì,
依舊桃花面,    Y cựu đào hoa diện,
頻低柳葉.       Tần đê liễu diệp mi.

半羞還半喜,    Bán tu hoàn bán hỷ,
欲去又依    Dục khứ hựu y y.
覺來知是夢,    Giác lai tri thị mộng,
不勝            Bất thăng bi.

Chú Thích
1- Nữ quan tử女冠子: tên từ điệu, 51 chữ, 2 đoạn, đoạn trên có 5 câu 2 trắc vận và 2 bình vận, đoạn dưới có 4 câu và 2 bình vận.
     Bài này Vi Trang làm để thương nhớ người thiếp yêu quý bị nhà vua cưỡng bách phải cho nhập cung (làm hầu thiếp cho vua). Kỳ 1 nói về nỗi lòng của người thiếp. Kỳ 2 mượn giấc mở để tả nỗi nhớ của Vi Trang.
2- Quân : chỉ tác giả.
3- Nhẫn lệ 忍淚: nhịn, kìm hay cầm nước mắt.
4- Dương đê diện 佯低面: giả vờ cúi mặt xuống.
5- Hàm Tu 含羞: xấu hổ, mắc cỡ.  
6- Liễm mi : chau mày.
7- Hồn dĩ đoạn 魂已斷: nói cách khác là tiêu hồn: mất hồn, hồn tan biến mất.
8- Liễu diệp mi 柳葉: chân mày lá liễu. Tần đê liễu diệp mi: mấy lần cúi mặt.
9- Y Y : lưu luyến không rời. 
10- Thăng : hết.

Dịch Nghĩa
Từ điệu Nữ quan tử của Vi Trang
Kỳ 1
Tháng tư mười bẩy,
Chính là năm ngoái hôm nay.
Lúc từ biệt chàng,
Vờ cúi mặt (để) cố cầm nước mắt.
Hơi chau mày (vì) tủi hổ,

Không biết hồn (mình) đã tan nát,
Chỉ còn theo nhau trong mộng (mà thôi).
Trừ ra vầng trăng xa thẳm,
Không ai biết (nỗi lòng của thiếp)

Kỳ 2
Nửa đêm hôm qua,
Rõ ràng trên gối (đang nằm ngủ) mơ thấy.
Nói (với nhau) nhiều lời,
Mặt (nàng) đẹp như hoa đào khi xưa.
Đôi lần làn mi lá liễu xụp xuống (cúi mặt xuống),

Nửa thẹn và nửa mừng,
Muốn đi nhưng lưu luyến không rời.
Tỉnh ngủ mới biết chỉ là giấc mộng,
Lòng buồn vô hạn.

Phỏng Dịch

1 Nữ Quan Tử kỳ 1 - Lúc Chia Tay

Tháng tư mười bẩy,

Chính là ngày này năm ngoái,

Lúc chia tay.

Nén khóc vờ cúi mặt,

Thẹn thùng sẽ cau mày.

Không biết hồn đã mất,

Chỉ còn mộng đắm say.

Trừ vầng trăng xa thẳm,

Không ai hay.


2 Lúc Chia Tay


Hôm nay mười bẩy tháng tư,
Ngày này năm ngoái em từ biệt anh.
Cúi đầu giấu lệ long lanh,
Cau mày tủi hổ thôi đành hồn tan.
Từ nay trong mộng gặp chàng,
Bên trời chỉ bóng trăng vàng dõi soi.
Nỗi lòng không ngỏ với ai.

1 Nữ Quan Tử kỳ 2- Mộng Thấy Người

 

Lúc nửa đêm hôm ấy,

Trên gối rõ ràng mộng thấy,

Nói nhiều lời.

Vẫn đào hoa nét mặt,

Đôi mi liễu buông lơi.

Nửa mừng và nửa thẹn,

Muốn đi nhưng chẳng rời.

Tỉnh giấc biết là mộng,

Buồn chơi vơi.

 

2 Mộng Thấy Người


Nửa đêm hôm trước thấy người,
Rõ ràng bên gối trao lời trong mơ.
Hoa đào sắc diện như xưa,
Làn mi lá liễu thẫn thờ đôi khi.
Mừng, thẹn, cố nán chưa đi
Tỉnh ra mới biết mộng về chơi vơi.
Lòng buồn dằng dặc khôn nguôi.

HHD 12- 2018




Saturday, December 1, 2018

Thích Thị - Liễu Vĩnh

戚氏 - 柳永           Thích Thị - Liễu Vĩnh

 

晚秋,                                   Vãn thu thiên,

一霎微雨灑庭.       Nhất sáp vi vũ sái đình hiên.

檻菊蕭疏,                               Hạm cúc tiêu sơ,

井梧零亂惹殘.        Tỉnh ngô linh loạn, nhạ tàn yên.

,                                       Thê nhiên,

望江.                                   Vọng giang quan,

飛雲黯淡夕陽.        Phi vân ảm đạm tịch dương gian.

當時宋玉悲感,            Đương thời Tống ngọc bi cảm,

向此臨水與登.        Hướng thử lâm thủy dữ đăng sơn.

遠道迢遞,                               Viễn đạo điều đệ,

行人悽楚,                               Hành nhân thê sở,

倦聽隴水潺.            Quyện thính lũng thủy sàn viên.

正蟬鳴敗葉,                Chính thiền minh bại diệp,

蛩響衰草,                     Cùng hưởng suy thảo,

相應聲.                     Tương ứng thanh huyên.

 

孤館度日如,            Cô quán độ nhật như niên,

風露漸變.                     Phong lộ tiệm biến,

悄悄至更.                Thiểu thiểu chí canh lan.

長天靜讀絳河清,    Trường thiên tĩnh, giáng hà thanh thiển,

皓月嬋.                     Hạo nguyệt thuyền quyên.

思綿綿,                                   Tư miên miên,

夜永對景,                               Dạ vĩnh đối cảnh,

那堪屈指,                               Na kham khuất chỉ,

暗想從.                               Ám tưởng tùng tiền.

未名未祿,                               Vị danh vị lộc,

綺陌紅樓,                               Ỷ mạch hồng lâu,

往往經歲遷.            Vãng vãng kinh tuế thiên diên.

 

帝里風光好,                Đế lý phong quang hảo,

當年少日,                     Đương niên thiếu nhật,

暮宴朝.                     Mộ yến triêu hoan.

况有狂朋怪侶,            Huống hữu cuồng bằng quái lữ,

遇當歌對酒競留.    Ngộ đương ca đối tửu cạnh lưu liên.

別來迅景如梭,                      Biệt lai tấn cảnh như thoa,

舊遊似夢,                              Cựu du tự mộng,

煙水程何?                         Yên thủy trình hà hạn?

念利名讀憔悴長縈,         Niệm lợi danh, tiều tụy trường oanh bạn,

追往事讀空慘愁.              Truy vãng sự, không thảm sầu nhan.

漏箭移讀稍覺輕,             Lậu tiễn di, sảo giác khinh hàn,

聽嗚咽讀畫角數聲.         Thính ô yết, họa giác sổ thanh tàn.

對閒窗畔,                              Đối nhàn song bạn,

停燈向曉,                              Đình đăng hướng hiểu,

抱影無.                              Bão ảnh vô miên.

 

Chú Thích

1- Thích thị 戚氏:tên từ điệu do Liễu Vĩnh sáng tác, gồm 212 chữ, 3 đoạn, đoạn 1 có 15 câu và 9 bằng vận, đoạn 2 có 12 câu và 6 bằng vận, đoạn 3 có 15 câu và 6 bằng vận, 2 diệp vận.               

          Diệp vận có cùng vần với chính vận nhưng khác thanh âm. Thí dụ chính vận là "Yên" thì diệp vận sẽ là yến, yển, tiến, tiện, diện v.v.   

Cách luật:  

 

T B B vận

X X B T T B B vận

T T B B cú

T B X T T B B vận

B B vận

T B B vận

B B X T T B B vận

B B T T B T cú

T X B T T B B vận

X X B T cú

B B X T cú

T B X T B B vận

T B B T T cú

B X X T cú

X T B B vận

  

B T T T B B vận

B X T T cú

T T T B B vận

B B T, T B X T cú

T T B B vận

T B B vận

T T T T cú

B B T T cú

T T B B vận

T B T T cú

T T B B cú

X T X T B B vận

  

T T B B T cú

X B T T cú

T T B B vận

T T B B T T cú

T B B T T T B B vận

T B T T B B cú

T B T T cú

X T B B T diệp

T T B, X T B B T diệp

X X X, B T B B vận

T T X, X T B B vận

T X X, T T T B B vận

T B B T cú

B B T T cú

T T B B vận

 

B: bình thanh, T: trắc thanh, X: bất luận, diệp: vần lá, cú: hết câu, vận: vần.

 

2- Nhất sáp (siếp, thiếp) 一霎:một trận, 1 đoạn thời gian ngắn.

3- Đình hiên 庭軒:trong bài này có nghĩa là đình viện 庭院, sân vườn.

4- Hạm cúc 檻菊:Hoa cúc trồng ở hàng rào hoặc lan can.

5- Tỉnh ngô 井梧:Cây ngô đồng cổ thụ trồng ở gần giếng nước. Trong bài thơ Tỉnh ngô ngâm 井梧吟 của Tiết Đào 薛濤 đời Đường có câu: " Đình trừ nhất cổ đồng, tũng cán nhập vân trung. Chi nghinh nam bắc điểu, Diệp tống vãng lai phong 庭除一古桐,聳干入雲中。枝迎南北鳥,葉送往來風。" = Cây ngô đồng ở trong sân vườn, thân cao chọc vào mây. Cành đón chim nam bắc, Lá đưa gió qua lại.

6- Giang quan 江關:Phiếm chỉ Giang nam, hoặc chỉ quang cảnh trong nước. Giang quan cũng là tên một quan ải đời chiến quốc, thuộc tỉnh Tứ Xuyên TH, ở trên núi phía bắc sông Trường giang. Giang quan cũng là tên 1 thị trấn nay là Kinh Môn  thuộc tỉnh Hồ Bắc 湖北, TH.

7- Tống Ngọc bi cảm 宋玉悲感:Bài Sở từ "Cửu biện九辯"của Tống Ngọc đời Chiến quốc 戰国 được làm do cảm khái về nỗi buồn của mùa thu, nỗi tịch mịch của người lữ khách sinh bất phùng thời.

8- Điều đệ 迢遞 = điều đái 迢遰:dáng vẻ xa xôi, khúc chiết, liên miên bất tuyệt, thời gian dài đăng đẳng, hay trạng thái suy tư xa xôi.

9- Lũng thủy 隴水= Lũng đầu lưu thủy 隴頭 流水: Dòng nước chẩy trên đỉnh núi Lũng sơn. Trong bài hát Lũng đầu ca của nhạc phủ có câu:

 

隴頭流水,流離山下。Lũng đầu lưu thủy, lưu ly sơn hạ.

念吾一身,飄然曠野。Niệm ngô nhất thân, phiêu nhiên khoáng dã.

朝發欣城,暮宿隴頭。Triêu phát Hân thành, Mộ túc Lũng đầu.

寒不能語,舌捲入喉。Hàn bất năng ngữ, Thiệt quyển nhập hầu.

隴頭流水,鳴聲嗚咽。Lũng đầu lưu thủy, minh thanh ô yết.

遙望秦川,心肝斷絕。Dao vọng Tần xuyên, Tâm can đoạn tuyệt.

Dòng nước ở Lũng Đầu, chẩy xuống chân núi.

Nghĩ một thân tôi, phiêu du miền khoáng dã.

Sáng xuất phát từ Hân thành, chiều nghỉ ở Lũng đầu.

Lạnh không nói được, Cái lưỡi cuốn vào trong cổ họng.

Dòng nước ở Lũng đầu, Tiếng kêu róc rách.

Nhìn xa đất Tần Xuyên, lòng dạ buồn tan nát.

 

10- Sàn viên 潺湲:dáng nước chảy róc rách.  

11- Cùng 蛩: con dế mèn (tất suất 蟋蟀).

12- Canh lan  闌:gần canh năm, đêm khuya.

13- Giáng hà 絳河:tức ngân hà 銀河. Thiên không gọi là giáng tiêu 絳霄,ngân hà gọi là giáng hà 絳河.

14- Thanh thiển 清淺: trong vắt và nông (Ở đây chỉ dải ngân hà theo truyền thuyết nước sông ngân hà trong vắt và nông chứ không sâu).

15- Thuyền quyên 婵娟:gương mặt đẹp đẽ.

16- Dạ vĩnh 夜永:đêm dài.

17- Khuất chỉ 屈指: bấm ngón tay tính toán,

18- Ỷ (khỉ) mạch hồng lâu 綺陌紅còn gọi là hoa nhai thanh lâu 花街青樓: con đường phồn hoa có ca lâu kỹ viện. Ỷ mạch 綺陌 = con đường phồn hoa.

19- Kinh tuế 經歲:kinh niên 經年.

20- Thiên diên 遷延: đình lưu xa nhà hoặc lưu trú ở lữ quán, tư do tự tại, không bị câu thúc.

21- Đế lý 帝里: kinh thành 京城。

22- Cuồng bằng quái lữ狂朋怪侣: bạn bè ngông cuồng cao ngạo.

23- Cạnh : cạnh tương 競相 = cạnh tranh, tranh nhau.

24- Lưu liên 留連: không muốn bỏ đi. Cũng viết là lưu liên 流連.

25- Tấn cảnh 迅景: năm tháng.

26- Thoa (toa) : con thoi trên khung cửi dệt vải, chạy qua chạy lại rất nhanh vì vậy có câu tục ngữ rằng "Năm tháng như thoi đưa".

27- Trình  = lộ trình 路程.

28- Hà hạn 何限: vô hạn, vô biên, nhiều ít, bao nhiêu.

29- Oanh bạn 縈絆 = củ triền纠缠: quấn quit.

30- Lậu tiễn 漏箭: đồng hồ thời xưa dùng nước nhỏ giọt để tính thời gian. Lậu tiễn di 漏箭移: thời gian đi qua.

31- Họa giác 畫角: tù và dùng trong quân đội.

32- Đình đăng 停燈: tắt đèn.

33- Bảo ảnh vô miên 抱影無眠: một mình suốt đêm không ngủ.

 

Dịch Nghĩa

Cuối mùa thu (thâm thu)

Một trận mưa ngắn ướt sân vườn.

Bụi cúc ở lan can xơ xác.

Cây ngô đồng ở cạnh giếng điêu tàn, bị khói tàn bao phủ.

(Cảnh sắc) thê lương,

Nhìn xa sông núi quan sơn,

Mây bay ảm đạm giữa ánh sáng chiều tà.

Ngày xưa Tống Ngọc cảm động buồn bã (trước cảnh thu),

Từ đó đã đi (ngắm cảnh) sông nước núi non.

Đường xá xa xôi khúc chiết,

Người đi thê thảm khổ sở,

Mệt mỏi nghe dòng nước chảy róc rách.

Chính (tại lúc) ve sầu kêu than lá rụng,

Tiếng dế mèn kêu không ngừng trong đám cỏ tàn,

(Mọi âm thanh) tiếng dứt tiếng nối huyên náo.

 

(Sống) tại quán trọ (hay dịch quán) cô đơn 1 ngày như 1 năm,

Gió sương dần dần biến đổi (lạnh lẽo thêm),

Lặng lẽ đến đêm khuya.

Bầu trời yên tĩnh (không mây), dải ngân hà trong vắt và nông(không sâu)

Trăng sáng đẹp đẽ.

Suy tư liên miên,

Suốt đêm dài đối trước cảnh (này),

Không chịu đựng nổi, bấm ngón tay tính toán,

Ngấm ngầm nghĩ đến chuyện ngày xưa,

Chưa có công danh tài lộc,

(Lui tới) con đường phồn hoa có ca lâu kỹ viện,

Thường thường kinh niên tự do tự tại, (hao phí thời gian) xa nhà.

 

Phong cảnh kinh đô đẹp,

Những ngày thời niên thiếu,

Chiều yến tiệc sáng vui chơi.

Huống chi có bạn bè ngông cuồng, quái dị,

Gặp ca hát, gặp rượu thì tranh nhau ở lại không về.

Từ lúc biệt ly đến nay năm tháng như thoi đưa,

Vui chơi xưa như giấc mộng,

Lộ trình (trước mặt) khói sương vô hạn.

Nghĩ lợi danh, cái tiều tụy nó quấn quít tôi mãi (làm tôi mãi tiều tụy),

Truy tìm việc cũ, chỉ để lại dung nhan buồn thảm.

Thời gian trôi đi, hơi cảm thấy lạnh lẽo,

Nghe nức nở dư âm của vài tiếng tù và (vọng lại).

Đứng trước cửa sổ,

Tắt đèn chờ sáng,

Ôm lấy hình ảnh (cô đơn của mình) (suốt đêm) không ngủ.

 

Phỏng Dịch

 

Buồn Cuối Thu

 

Cuối thu một thoáng mưa phùn,

Mái hiên ướt nước cúc vườn tiêu sơ.

Ngô đồng bên giếng bơ phờ,

Khói mờ vây phủ sững sờ giang quan.

 

Tịch dương ảm đạm mây ngàn,

Mỗi khi lâm thủy đăng san bồi hồi.

Trên đường diệu vợi xa xôi,

Người đi gian khổ đỉnh đồi suối than.

 

Ve kêu rền rĩ lá vàng,

Dế mèn than vãn cỏ tàn huyên huyên.

Một ngày quán vắng như niên,

Gió sương dần lạnh, lặng yên đêm tàn.

 

Trường thiên thu tĩnh miên man,

Ngân hà trong cạn trăng vàng đẹp xinh.

Đêm dài nghĩ ngợi linh tinh,

Cảnh thu khắc khoải tâm tình khôn nguôi.

 

Chưa danh chưa lợi cuộc đời,

Con đường hoa lệ tới lui bao ngày.

Kinh đô cảnh sắc tuyệt vời,

Thiếu niên thủa ấy ăn chơi sớm chiều.

 

Huống chi bạn hữu ngông liều,

Rượu chè ca hát đôi điều quẩn quanh.

Biệt rồi năm tháng trôi nhanh,

Vui xưa như mộng, lộ trình khói sương.

 

Lợi danh tiều tụy đoạn trường,

Nhìn về quá khứ sầu thương mặt người.

Đồng hồ giọt nước lạnh rơi,

Tù và vài tiếng chơi vơi ngập ngừng.

 

Đối nhàn đứng dựa bên song,

Đèn tàn, chờ sáng, ôm lòng trắng đêm.

 

HHD 12-2018

 

 

Bản Dịch của Lộc Bắc

 

Thích Thị - Liễu Vĩnh

         

1-     

Sắp mãn phiên,

Mưa thu một trận tưới hàng hiên.

Cúc giậu xác sơ,

Cây ngô điêu tàn, khói phủ lên.

Khổ phiền,

Vọng giang san,

Mây bay ảm đạm, ánh dương tàn.

Tống Ngọc xưa khi sầu cảm,

Viếng thăm sông nước lẫn trèo non.

Đường xa thăm thẳm,

Hành nhân khổ sở,

Mệt nghe nước chảy triền miên.

lúc ve kệu lá rụng,

Dế mèn cỏ gáy,

Tương ứng hàn huyên.

 

Ngày qua quán vắng một niên,

Gió sương dần đổi,

Lặng lẽ đến canh tàn.

Trời yên tĩnh, ngân hà trong cạn,

Trăng sáng tròn xinh.

Nghĩ triền miên,

Suốt đêm ngắm cảnh,

Mở tay bấm đốt,

Thầm tính nhãn tiền.

Chưa danh, chưa lộc,

Con đường ca lâu,

Thời gian hoang phí kinh niên.

 

Phong cảnh đế đô đẹp,

Ngày xưa niên thiếu,

Chiều yến sáng hoan.

Bạn bè ngông cuồng quái đản,

Gặp hát, gặp rượu nán lại triền miên.

Biệt ly ngày tháng thoi đưa,

Vui xưa như mộng,

Nay, khói sương vô hạn?

Thêm lợi danh, tiều tụy theo như bạn,

Truy việc cũ, sầu thảm dung nhan.

Hơi thấy lạnh lúc cảm thời gian,

Nghe nức nở, tù và rúc âm tàn.

Nhàn trước song cửa,

Tắt đèn chờ sáng,

Ôm ảnh, mơ màng!    

 

2-     

Mưa thu tưới ướt hàng hiên

Cúc, ngô sơ xác khói lên điêu tàn

Khổ phiền trông vọng quan san

Mây bay ảm đạm, dương tàn, chiều đi

Xưa kia Tống Ngọc sầu bi

Lúc thăm sông nước, khi thì trèo non

Đường xa đau khổ hành nhân

Mệt nghe nước chảy rần rần về xuôi

Ve kêu lá rụng bồi hồi

Dế mèn cỏ nấp góp lời hàn huyên

 

 

Một ngày quán vắng, một niên

Gió sương lạnh lẽo dần lên canh tàn

Ngân hà yên tĩnh trong khan

Sáng trăng đẹp đẽ muộn vàn nghĩ suy

Suốt đêm đối cảnh sầu bi

Bấm tay tính toán chi li nhãn tiền

Chưa danh, chưa lộc, ưu phiền

Ca lâu tửu điếm thường xuyên phì hoài

 

 

Đế đô phong cảnh tuyệt vời

Ngày xưa niên thiếu vui chơi hoang đàng

Chiều yến tiệc, sáng truy hoan

Bạn bè quái đản, điếm đàng, cuồng ngông

Rượu, ca nán lại lòng vòng

Tháng ngày ly biệt thoi bông tít mù

Ngày xưa vui sống mộng mơ

Ngày nay sương khói mịt mờ bóng câu

Lợi danh, tiều tụy theo nhau

Việc qua nghĩ lại thảm sầu dung nhan

Thời gian lạnh lẽo thốn tâm

Tù và nức nở, thanh âm nát lòng

Tắt đèn đứng dựa bên song

Cô đơn ôm ấp, ngủ không thiết gì!

 

LB