Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Saturday, September 25, 2021

Vô Đề - Lý Thương Ẩn 1

無題 - 李商隱   Vô Đề - Lý Thương Ẩn 1

(Toàn Đường thi quyển thứ 539, bài số 67)

 

白道縈回入暮霞,Bạch đạo oanh hồi nhập mộ hà,

斑騅嘶斷七香車。Ban chuy tê đoạn thất hương xa.      

春風自共何人笑,Xuân phong tự cộng hà nhân tiếu,

枉破陽城十萬家。Uổng phá dương thành thập vạn gia.

 

Chú Thích

1 Bạch đạo 白道: đường trắng do không có cỏ mọc, đường lớn dùng cho xe ngựa. Chữ này thường đưọc các thi nhân đời Đường dùng đến.

2 Oanh hồi 縈回: quanh co, khúc khuỷu.

3 Mộ hà 暮霞: ráng đỏ của mây chiều.

4 Ban chuy 斑騅: ngựa khoang trắng xanh.

5 Tê : tiếng ngựa hý. Đoạn : đứt, dứt, tắt, không nghe thấy nữa.

6 Thất hương xa 七香車: xe làm bằng 7 loại gỗ thơm quý. Trong bài này chữ thất hương xa phiếm chỉ cỗ xe xa hoa, sang trọng, đẹp đẽ.

7 Xuân phong 春風 = xuân phong diện 春風面: gương mặt tươi đẹp ở tuổi xuân của mỹ nhân. Mượn chữ từ thơ của Đỗ Phủ 杜甫trong bài Vịnh Hoài Cổ Tích 5 Bài, kỳ 3 詠懷古蹟五首·其三, nói về Vương Chiêu Quân:

 

畫圖省識春風面,Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện,

環佩空歸夜月魂。Hoàn bội không quy dạ nguyệt hồn.

Nghĩa là: Xem tranh sao biết dung nhan mỹ lệ, Trong đêm trăng bỗng nhiên nghe tiếng (leng keng của) vòng ngọc trang sức của hồn (Chiêu Quân) về.

 

8 Cộng : cùng với. Hà nhân 何人: người nào đó.

9 Uổng : lãng phí, uổng phí.

10 Phá : trong bài này có nghĩa là khuynh đảo.

11 Dương thành 陽城: tên đất, vào thời chiến quốc là đất phong của giới quý tộc. Trong bài phú “Đăng Đồ Tử háo sắc phú 登徒子好色赋: bài phú về người hiếu sắc tên là Đăng Đồ Tử” của Tống Ngọc đời chiến quốc có câu: “Yên nhiên nhất tiếu, hoặc Dương Thành, mê Hạ Thái 嫣然一笑, 惑阳城, 迷下蔡” có nghĩa là tươi tỉnh một nụ cười làm mê hoặc nam nhân ở Dương Thành và Hạ Thái”. Dương Thành và Hạ Thái là 2 vùng phong hầu cho bọn quyền quý thời bấy giờ.

  

Dịch Nghĩa

Đường cái trắng (không cỏ) quanh co đi xa tít và mất hút vào ráng mây chiều,

Tiếng hý của con ngựa khoang xanh trắng, kéo chiếc xe sang trọng, nghe xa dần và mất hẳn.

Mỹ nhân ngồi trong có gương mặt mỹ lệ mơn mởn gió xuân tự cười với ai đó,

(Nam nhân trong) mười vạn nhà ở Dương Thành bị mê hoặc bởi sắc đẹp của mỹ nhân, cũng thành uổng phí thôi.

 

Lời Bàn

          Hai câu đầu cho thấy một cỗ xe ngựa sang trọng chạy trên một con đường trắng ngoằn ngoèo đi xa dần và mất hút vào ráng mây hồng nơi chân trời. Tiếng ngựa hý cũng nhỏ dần rồi mất hẳn. Tả cảnh người đi xa bằng cả thị giác và thính giác.

          Hai câu sau là phần chính của bài thơ. Chữ “Xuân phong” rõ ràng chỉ thiếu nữ trong xe, mặt xuân phơi phới, liếc mắt nghiêng thành, nụ cười khuynh đảo, mê hoặc hàng vạn con tim trong thành.

          Chữ “uổng” ở đầu câu thứ tư cho thấy một điều gì đây? Mỹ nhân không tìm thấy một kẻ tri âm trong hàng vạn người bị tư sắc của mỹ nhân khuynh đảo chăng? Ai mới là kẻ tri âm chân chính của mỹ nhân? 

          Hoặc giả trong một dịp tình cờ nào đó tác giả trông thấy mỹ nhân ra đi trên đường thiên lý đã làm tác giả cảm hoài. Hoặc giả chính Lý Thương Ẩn đã đưa tiễn người yêu ra đi mà làm một bài thơ “Ly biệt hận tình” chăng?

          Có người nói bài này là 1 trong loạt tình thi của Lý Thương Ẩn gửi người yêu đầu đời của ông là Tống Hoa Dương 宋華陽.

          Nếu không phải như thế thì dù có gương mặt mỹ lệ, nhất tiếu thiên kim, làm vạn người mê hoặc cũng chỉ là hư cấu và nhạt nhẽo.


          Tưởng cũng nên nói thêm là lúc thiếu thời Lý Thương Ẩn theo học Đạo giáo trên núi Ngọc Dương Sơn 玉陽山. Cùng lúc ấy Tống Hoa Dương là cung nữ theo hầu công chúa xuất gia cũng trên núi Ngọc Dương Sơn. Trai tài gặp gái sắc, hai người nhanh chóng rơi vào lưới tình và việc phải đến đã đến, Tống Hoa Dương mang thai. Cả hai bị trục xuất xuống núi. Đó là lần cuối cùng Lý Thương Ẩn còn trông thấy người yêu. Sau này ông cũng có để tâm đi tìm Tống Hoa Dương nhưng người thục nữ đã lưu lạc phương trời vô định nào, để lại cho ông một mối tình hận khôn nguôi.

 

Phỏng Dịch

Vô Đề 1

 

Đường trắng quanh co hút ráng tà,

Xe hoa ngựa hý khuất nơi xa.

Dáng xuân cười với cùng ai đó,

Uổng phí thành Dương mười vạn nhà.

 

HHD 2-2020

 

 

Bản Dịch Của Lộc Bắc

 

Vô Đề 1_Lý Thương Ẩn

 

Đường cái quanh co nhập ráng chiều

Xe hoa ngựa quý bặt âm reo

Gió xuân cười nhớ riêng ai đó

Uổng phí Dương thành vạn khách xiêu!

 

LB Mars20 

Vô Đề - Lý Thương Ẩn 2

無題 - 李商隱 2  Vô Đề - Lý Thương Ẩn 2

(Toàn Đường Thi, quyển 539, bài 83)

 

近知名阿侯,Cận tri danh A Hầu,

住處小江流。Trú xứ tiểu giang lưu.

腰細不勝舞,Yêu tế bất thăng vũ,

眉長惟是愁。Mi trường duy thị sầu.

黃金堪作屋,Hoàng kim kham tác ốc,

何不作重樓?Hà bất tác trùng lâu?

 

Chú Thích

1 Cận tri 近知: gần đây biết rằng.

2 A Hầu 阿侯: tên thiếu nữ. Trong bài “Hà trung chi thủy ca 河中之水歌” của Lương Võ Đế 梁武帝có câu:

 

河中之水向東流Hà trung chi thủy hướng đông lưu, - Nước sông chẩy hướng đông,  

洛陽女兒名莫愁。Lạc Dương nữ nhi danh Mạc Sầu. - Cô gái Lạc Dương tên là Mạc Sầu.

莫愁十三能織綺,Mạc Sầu thập tam năng chức ỷ, - Mạc Sầu 13 tuổi có thể dệt lụa,  

十四採桑南陌頭。Thập tứ thái tang nam mạch đầu. – 14 tuổi hái dâu đường hướng nam.

十五嫁為盧家婦,Thập ngũ giá vi Lô gia phụ, - 15 tuổi gả làm vợ nhà họ Lô,  

十六生兒字阿侯Thập lục sinh nhi tự A Hầu. – 16 tuổi sinh con tên A Hầu.

盧家蘭室桂為梁,Lô gia lan thất quế vi lương, - Khuê phòng Lô gia làm rường bằng gỗ quế,  

中有鬱金蘇合香。Trung hữu uất kim tô hợp hương. – có trồng hoa uất kim và tô hợp hương.

頭上金釵十二行,Đầu thượng kim thoa thập nhị hàng, - Đầu cài 12 hàng kim thoa, 

足下絲履五文章。Túc hạ ty lý ngũ văn chương. – Chân đi hài lụa thêu mầu sắc hoa văn.

珊瑚掛鏡爛生光,San hô quải kính lạn sinh quang, - San hô khảm khung kính phát quang,  

平頭奴子提履箱。Bình đầu nô tử đề lý sương. – Nô tỳ đội khăn giúp khiêng đồ đạc.

人生富貴何所望, Nhân sinh phú quý hà sở vọng, - Người đời phú quý còn lưu luyến chi,

恨不嫁與東家王。Hận bất giá dữ đông gia Vương - hận không gả cho hàng xóm họ Vương.

 

Mạc Sầu tuy gả cho nhà giầu họ Lô nhưng phú quý không đem lại hạnh phúc. Trong thâm tâm cô lúc nào cũng tưởng nhớ đến mối tình thời niên thiếu với “đông gia Vương東家王”. Cô cảm thấy ái tình thật sâu đậm hơn phú quý gấp bội. Mệnh vận đã đem đến cho cô những nỗi buồn trong hôn nhân.

A Hầu là con trai hay con gái? “Nhi” có thể là con trai hoặc con gái. Riêng ông Lý Thương Ẩn nhận định A Hầu là con gái.

 

3 Trú xứ 住處: nơi ở.

4 Yêu tế 腰細: vòng eo nhỏ bé. (Theo tích xưa, hoàng hậu Triệu Phi Yến người gầy nhưng ca múa rất giỏi).

5 Thăng  (đọc là thăng): có thể gánh vác hay đảm nhiệm được.

6 Bất thăng vũ 不勝舞: không thể múa.

7 Hoàng kim 黃金: vàng.

8 Kham : có thể, khả dĩ, năng.

9 Hoàng kim kham tác ốc 黃金堪作屋: có thể làm nhà bằng vàng. Điển tích do Hán Võ Đế  漢武帝lúc thiếu thời đã từng nói “Nhược đắc A kiều tác phụ, đương tác kim ốc trữ chi 若得阿 嬌作婦,當作金屋貯之: nếu được A Kiều làm vợ, thì nên làm nhà vàng cho nàng ở”. A Kiều tức Trần A Kiều 陳阿嬌, con gái của Quán Đào công chúa 館陶公主, người cô của Hán Võ Đế. Từ đó có thành ngữ “Kim ốc tàng kiều 金屋藏嬌: nhà vàng chứa người đẹp”.

10 Trùng lâu 重樓: nhà lầu 2 tầng.

 

Dịch Nghĩa

Gần đây biết (cô gái) tên A Hầu,

Trú tại dòng sông nhỏ (nước) chẩy.

Vòng eo nhỏ không thể múa,

Chân mày dài đẹp lại chỉ là tỏ vẻ buồn bã.

Vàng có thể làm nhà,

Sao không làm nhà lầu 2 tầng.

 

Lời Bàn

 Nội dung bài thơ rõ ràng miêu tả một mỹ nữ tên là A Hầu trú tại bên bờ dòng sông nhỏ, tư dung mỹ miều theo phong thái thời xưa, vẻ mặt lại thường ưu sầu. A Hầu lại là con của nàng “Mạc Sầu” trong bài ca của Lương Võ Đế xưa. Mạc Sầu lại là dâu của phú gia họ Lô. Nhưng câu thứ nhì “Trú tại dòng sông nhỏ” cho thấy A Hầu đã bị lưu lạc đến bến sông mưu sinh, không còn là thiên kim tiểu thư của nhà giầu Lô gia nữa. Hoặc giả Lý Thương Ẩn chỉ muốn mượn tên “A Hầu” để phiếm chỉ một thiếu nữ nào đó trong giới phong trần thời xa xưa.  

Chữ “Mi dài”, “Eo nhỏ không thể múa” ám chỉ A Hầu là cô gái có tư sắc nhưng tại sao A Hầu lại học múa? phải chăng vì nghèo hèn nên phải học hoặc bị ép làm kỹ nữ. Eo nhỏ và chân mày dài thiếu nữ quả là đối tượng của khách mua hoa thời bấy giờ. Trong hoàn cảnh này thì A Hầu đương nhiên phải buồn bã cho mệnh vận.

Câu “Vàng có thể dùng để làm nhà” cho thấy sắc đẹp của A Hầu đã chinh phục được các công tử quyền quý. Công tử hứa hẹn đủ điều kể cả “Đúc sẵn nhà vàng chờ người quốc sắc”.

Trong câu cuối cùng, thi nhân đại diện A Hầu để chất vấn các vị Vương tôn Công tử thường lui tới “Du dã xứ” rằng đã yêu mến thì tại sao không chuộc tôi ra khỏi chỗ “Phong trần” này? Không cưới tôi làm vợ? Lý Thương Ẩn cũng như Bạch Cư Dị và những thi nhân đương thời muốn nói lên những nỗi buồn khổ của giới kỹ nữ trong xã hội thời cổ.

          Có người cho rằng ông làm bài này để kêu ca những người đã từng giúp đỡ ông trên đường hoạn lộ, đã giúp thì tại sao không giúp thêm tí nữa? Thực ra Lý Thương Ẩn là nạn nhân giữa 2 quyền lực đương thời. Ông đã nhiều lần kêu oan và chính thức nhờ giúp đỡ nhưng bị từ chối và ghét bỏ thì làm bài thơ bóng bẩy này phỏng có ích gì?

 

Phỏng Dịch

Vô Đề 2

 

Mới biết tên A Hầu,

Ở cạnh dòng sông sâu.

Lưng gầy không thể múa,

Mi dài chỉ biết sầu.

Nhà vàng có thể dựng,

Sao chẳng cất lầu cao?

 

HHD 2-2020

 

Bản Dịch Của Lộc Bắc

 

Vô đề 2_Lý thương Ẩn

 

Mới biết nàng A hầu

Sống cạnh ngòi nước sâu

Eo thon không thể múa

Dài mi chỉ nhuốm sầu

Nhà vàng dư sức cất

Sao chẳng cất lầu cao?

 

LB

Mars20

 

 

  

Vô Đề Nhị Thủ - Lý Thương Ẩn 1

無題二首 - 李商隱  Vô Đề Nhị Thủ - Lý Thương Ẩn 1

(Toàn Đường Thi quyển 539 bài thứ 103)

其一

昨夜星辰昨夜風,Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong,

畫樓西畔桂堂東。Họa lâu tây bạn quế đường đông.

身無綵鳳雙飛翼,Thân vô thải phụng song phi dực,

心有靈犀一點通。Tâm hữu linh tê nhất điểm thông.

隔座送鉤春酒暖,Cách tọa tống câu xuân tửu noãn,

分曹射覆蠟燈紅。Phân tào xạ phúc lạp đăng hồng.

嗟余聽鼓應官去,Ta dư thính cổ ưng quan khứ,

走馬蘭臺類轉蓬。Tẩu mã lan đài loại chuyển bồng.

 

其二

聞道閶門萼綠華,Văn đạo xương môn Ngạc Lục Hoa,

昔年相望抵天涯。Tích niên tương vọng để thiên nhai.

豈知一夜秦樓客,Khởi tri nhất dạ tần lâu khách,

偷看吳王苑內花。Thâu khán Ngô vương uyển nội hoa.

 

Chú Thích

1 Tinh thần 星辰: các tinh tú, các ngôi sao.          

2 Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong 昨夜星辰昨夜風: đêm hôm qua có tinh tú và gió, ý nói gặp lúc trời đẹp.

3 Họa lâu 畫樓=nhà trang trí hoa lệ, và quế đường桂堂= nhà làm bằng gỗ quế hay pha bột quế vào vôi quét lên tường. Hai chữ này chỉ nhà cửa của giới giầu sang.

4 Tây bạn 西畔: mé phía tây.

5 Thải phụng 綵鳳: Con chim phụng có mầu sắc sặc sỡ.

6 Linh tê 靈犀: thuyết xưa nói trong sừng của tê giác thần có đường hoa văn trắng thông suốt 2 đầu sừng, cảm ứng linh mẫn. Chữ này ám chỉ 2 người yêu nhau tâm linh cảm ứng với nhau, thông cảm nhau.

7 Tống câu 送鉤: cũng còn gọi là “Tàng câu 藏鉤”, một trò chơi ngày xưa vào tháng chạp, chia làm 2 nhóm, một nhóm truyền tay nhau giấu một cái khoen ở sau lưng để nhóm kia đoán xem cái khoen đang ở trong tay người nào. Tương truyền Hán Vũ Đế thu nạp một thiếu nữ xinh đẹp mà 2 tay bàn lúc nào cũng nắm lại. Hán Vũ Đế mở bàn tay thiếu nữ ra thì lấy được 1 cái khoen bằng ngọc. Do vậy thiếu nữ được gọi là Câu Dặc phu nhân 鉤弋夫人 và từ đó có trò chơi tàng câu.

8 Phân tào 分曹: chia tổ, chia nhóm.

9 Xạ : tìm kiếm, suy đoán. Phúc : giấu, che đậy. Xạ phúc 射覆: một trò chơi ngày xưa, giấu vật gì đi, úp cái chén hay cái khăn lên để cho người khác đoán ra. Bên thua sẽ phải uống rượu phạt. Chữ này muốn nói lên sự náo nhiệt của buổi tiệc hội.

10 Ta: tiếng than thở.

11 Dư : ta, tôi.

12 Cổ : trống canh.

13 Ưng quan khứ 應官去: đi làm việc quan.

14 Tẩu mã 走馬: cưỡi ngựa đi.

15 Lan đài 蘭臺: tức là chức “Bí Thư Tỉnh 祕書省”, chuyên coi sóc sách vở văn thư. Lý Thương Ẩn đã từng giữ chức “Bí Thư Tỉnh Chính Tự 祕書省正字”, coi sóc thư tịch trong cung.

16 Loại : loại như, kiểu như.

17 Chuyển bồng 轉蓬: cỏ bồng bay chuyển.

18 Xương môn  = xương hạp  閶闔: cửa nhà trời, cửa cung vua.

19 Ngạc Lục Hoa 萼綠華: tên của một tiên nữ trong truyện cổ tích.

20 Tương vọng 相望=trông ngóng nhau, xa cách nhau (=tương cự 相距).

21 Để : đến, tới.

22 Tần lâu khách 秦樓客: phiếm chỉ người tình lang. Chuyện kể đời chiến quốc có người Tiêu Sử thổi tiêu rất giỏi, Công chúa Lộng Ngọc mơ thấy rồi đòi vua cha là Tần Mục Công vời Tiêu Sử đến và 2 người đã thành hôn.

23 Ngô vương 吳王: Ngô Phù Sai. Ám chỉ người đẹp Tây Thi.

 

Dịch Nghĩa

Kỳ 1

Đêm qua trời sao và đêm qua gió,

Tại mé tây căn nhà hoa lệ và ở phiá đông căn phòng làm bằng gỗ quế.

Thân không có đôi cánh của chim phụng sặc sỡ, không thể dựa cánh cùng bay.

Trong tâm lại như con tê giác linh, có điểm cảm tình thông nhau.

Ngồi cách nhau cùng chơi trò giấu khoen, rồi đối ẩm rượu xuân ấm áp.

Chia nhóm chơi trò đoán vật dưới ánh nến hồng.

Tiếc thay, nghe tiếng trống cầm canh, đã đến lúc phải đi làm việc quan.

Cưỡi ngựa chạy đến “Lan Đài”, phi nhanh như cỏ bồng bay theo gió.

 

Kỳ 2

Nghe nói đến nàng tiên Ngạc Lục Hoa ở cửa trời,

Năm xưa trông ngóng đến nơi xa (Biết rằng người ấy ở xa xôi nơi chân trời).

Nào biết đâu mình (như Tiêu Sử xưa) thành người khách nơi lầu của Tần Vương,

Lại lén ngắm được đóa hoa trong vườn thượng uyển của Ngô Vương.

 

Lời Bàn

         Bài này gồm 2 phần, phần một tả chuyện tình chưa hoàn toàn, phần hai bổ túc cho phần một.Toàn bài thơ kỳ 1 cho cảm giác như “nhìn mà không với được”, “thấy bánh mà chưa ăn được”, nhiệt tình truy tầm có pha chút thất ý.

         Địa điểm và thời gian nói rõ. Điệp ngữ “Tạc dạ” cho thấy tác giả luôn nghĩ tới “Cái đêm hôm ấy”, một đêm trăng sao gió thổi, trời cao khoáng đãng. Chữ phong có nhiều nghĩa, gió mát, gió lạnh, gió ấm, gió hây hây, kể cả gió trăng ám chỉ tình ái nam nữ “Phong nguyệt tình hoài”.

        Tác giả nhắc đến chữ quế đường, “trải vách quế”, hiển nhiên nhắc đến tẩm thất của nữ lang quyền quý. Yến tiệc dĩ nhiên không chiêu đãi trong tẩm thất, nhưng trong buổi yến tiệc có sự hiện diện của vị ý trung nhân, cách tọa, đối ẩm xuân tửu.

       Điều ngậm ngùi là vì thân đơn thế cô, không có đủ thế lực để cùng ý trung nhân chắp cánh liền cành nhưng điểm an ủi là “tình trong như đã”, hai lòng đã cảm thông như có tiền duyên chú định.

 

Phỏng Dịch

Kỳ 1

Đêm trước sao trời đêm trước gió,

Vách tây lầu họa quế phòng đông.

Thân không phụng đẹp song phi cánh,

Tâm có lân thiêng một cảm thông.

Ngồi cách, giấu khoen xuân rượu ấm,

Chia phe tìm vật chúc đăng hồng.

Việc quan nghe trống phải đi vội,

Phi ngựa như bay tựa cỏ bồng.

 

Kỳ 2

Nghe nói cửa trời nàng Lục Hoa

Năm xưa trông ngóng đến nơi xa.

Nào hay một tối tình lang ấy,

Trộm ngắm Ngô vương thượng uyển hoa.

 

HHD 3-2020 

 

 

Bản Dịch của Lộc Bắc

 

VÔ ĐỀ NHỊ THỦ

 

KỲ 1

 

Đêm trước sao đầy thoảng gió trăng

Bên tây lầu họa quế phòng đông

Thân không phụng tía bay liền cánh

Tâm có sừng tê một điểm thông

Ngồi cách dấu khoen xuân tửu nóng

Chia phe tìm vật nến đèn hồng

Ta buồn nghe trống quan kêu gọi

Thúc ngựa về nhanh tựa cỏ bồng

 

 

KỲ 2

 

Nghe nói cung vương có Lục Hoa

Năm xưa cùng ước đến trời xa

Lầu Tần đâu nghĩ một đêm khách

Thượng uyển lén nhìn đóa nội hoa!

 

LB 3-2020

 

  

Friday, September 24, 2021

Bồ Tát Man - Lý Thanh Chiếu

菩薩蠻 - 李清照  Bồ Tát Man – Lý Thanh Chiếu

 

風柔日薄春猶早。Phong nhu nhật bạc xuân do tảo.

夾衫乍著心情好。Giáp sam sạ trước tâm tình hảo.

睡起覺微寒。             Thụy khởi giác vi hàn.

梅花鬢上殘。             Mai hoa mấn thượng tàn.

 

故鄉何處是。             Cố hương hà xứ thị.

忘了除非醉。             Vong liễu trừ phi túy.

瀋水臥時燒。             Thẩm thủy ngọa thời thiêu.

香消酒未消。             Hương tiêu tửu vị tiêu.

 

Chú Thích

1- Bồ Tát Man菩薩蠻: tên từ bài. Cách luật:

 

X  B  X  T  B  B  T (trắc vận),

B  B  T  T  B  B  T (vận).

T  T  T  B  B (bình vận),

T  B  B  T  B (vận).

 

X  B  B  T  T (đổi trắc vận),

X  T  B  B  T (vận).

X  T  T  B  B (đổi bình vận),

X  B  X  T  B (vận).

 

X = bất luận; B = bình thanh; T = trắc thanh; vận = vần.

 

2- Phong nhu 風柔: gió nhu hòa.

3- Nhật bạc 日薄: ánh nắng nhạt.

4- Giáp sam 夾衫: áo kép, 2 lớp vải có nhồi bông ở giữa.

5- Sạ trước 乍著 = sạ trước 乍着: vừa mới mặc.

6- Mai hoa 梅花: cành hoa mai cắm trên tóc làm vật trang sức. Có người nói đây là chỉ hoa mai vẽ trên trán khi trang điểm, thịnh hành vào thời Tống.

7- Vong liễu 忘了: quên mất.

8- Thẩm thủy 瀋水 = trầm thủy 沉水: tức là trầm hương  còn gọi là trầm thủy 沉水 hay trầm thủy hương 沉水香.  

9- Ngọa thời thiêu 臥時燒: lúc trước khi đi ngủ đã đốt (trầm hương).

10- Hương tiêu 香消: mùi hương thơm tan đi mất.

 

Dịch Nghĩa

Gió nhu hòa nắng đạm bạc, mùa xuân còn sớm.

Áo kép mới mặc, tâm tình tốt.

Lúc ngủ dậy cảm thấy hơi lạnh.

Hoa mai (trang sức) cắm trên đầu đã tàn.

 

Cố hương ta hiện ở đâu?

Trừ phi say rượu thì mới quên.

Lúc đi ngủ mình đã đốt hương trầm.

(Bây giờ) hương trầm đã tan hết, mùi rượu vẫn chưa tan.

 

Phỏng Dịch

Ngày Xuân Nhớ Quê

 

Gió hòa nắng nhạt xuân còn sớm.

Tâm tình đẹp áo bông vừa ướm.

Thức giấc gió xuân hàn.

Hoa mai trên tóc tàn.

 

Nơi đâu làng xóm cũ?

Quên tịt lúc say rũ.

Khi ngủ đốt trầm hương.

Trầm tan hơi rượu vương.

 

HHD 09-2021

Thursday, September 16, 2021

Cảm Thương Vũ Nữ Cẩm Nhung

Cảm thương vũ nữ Cẩm Nhung

Theo tin trên mạng: Vũ nữ Cẩn Nhung qua đời

 

Thân tàn ma dại bởi vì đâu?

Nhan sắc chim sa thủa đẹp mầu.

Ác độc người đời gây tội lỗi,

Biết ai thương tiếc kiếp thanh lâu!

 

HHD 04-2016 

Bốc Toán Tử - Chu Đôn Nho

卜算子 - 朱敦儒  Bốc Toán Tử - Chu Đôn Nho

 

旅雁向南飛,             Lữ nhạn hướng nam phi,

風雨羣初             Phong vũ quần sơ thất.

飢渴辛勤兩翅垂,     Cơ khát tân cần lưỡng sí thùy

獨下寒汀             Độc hạ hàn đinh lập.

 

鷗鷺苦難親,             Âu lộ khổ nan thân,

矰繳憂相             Tăng chước ưu tương bức.

雲海茫茫無處歸,     Vân hải mang mang vô xứ quy,

誰聽哀鳴             Thùy thính ai minh cấp.

  

Chú Thích

1- Bốc toán tử卜算子: tên từ bài, tên khác là “Bách xích lâu 百尺樓”, “Mi phong bích 眉峯碧”, “Sở thiên dao 楚天遙”. Bài này có 44 chữ, mỗi đoạn có 2 trắc vận. Cách luật:

 

X T T B B cú

X T B B T vận

X T B B T T B cú

X T B B T vận

 

X T T B B cú

X T B B T vận

X T B B T T B cú

X T B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Lữ nhạn 旅雁: nhạn di cư bay xa. Trong bài này chữ “lữ nhạn” ám chỉ người chạy loạn đi về phương nam.

3- Sơ thất 初失: thất tán.

4- Tân cần 辛勤 = tân khổ cần lao 辛苦勤劳: chịu đắng cay cần cù lao động.

5- Sí : cánh chim.

6- Hàn đinh 寒汀: đất bãi sông hay cồn đất giữa sông lạnh lẽo.

7- Âu lộ : chim hải âu và chim cò. 

8- Tăng : mũi tên có buộc dây tơ để bắn chim.

9- Chước : dây tơ buộc sau mũi tên.

10- Tương bức 相逼= tương bức bách 相逼迫: áp lực thúc giục lên nhau.

11- Mang mang 茫茫: mênh mông.

 

Dịch Nghĩa

Chim nhạn di cư bay hướng nam,

Trong gió mưa chim nhạn thất tán với đàn nhạn.

Đói khát tân khổ làm 2 cánh nó rủ xuống,

Một mình đáp xuống đứng ở bãi sông lạnh lẽo.

 

Chim hải âu và chim cò khó làm thân,

Áp lực lo lắng bị cung tên bắn giết.

Mây biển mênh mông không nơi về trú ngụ,

Có ai nghe tiếng kêu buồn bã gấp gáp của chim nhạn.

 

Phỏng Dịch

Nhạn Lạc Đàn

 

Chim nhạn hướng nam bay,

Gió mưa nên lạc bầy.

Đói khát đắng cay hai cánh rủ,

Bờ sông xuống đứng đây.

 

Cò sến khó làm quen,

Phải coi chừng nỏ tên.

Trời đất mênh mông không chốn đến,

Ai nghe tiếng thảm rên.

 

HHD 09-2021

 

  

  

Wednesday, September 15, 2021

Bốc Toán Tử - Chu Đôn Nho

卜算子 - 朱敦儒  Bốc Toán Tử - Chu Đôn Nho

梅花 Mai hoa

 

古澗一枝梅,             Cổ giản nhất chi mai,

免被園林             Miễn bị viên lâm tỏa.

路遠山深不怕寒,     Lộ viễn sơn thâm bất phạ hàn,

似共春相             Tự cộng xuân tương đóa.

  

幽思有誰知?             U tư hữu thùy tri?

託契都難             Thác khế đô nan khả.

獨自風流獨自香,     Độc tự phong lưu độc tự hương,

明月來尋             Minh nguyệt lai tầm ngã.

 

Chú Thích

1- Bốc toán tử卜算子:  tên từ bài, tên khác là “Bách xích lâu 百尺樓”, “Mi phong bích 眉峯碧”, “Sở thiên dao 楚天遙” v.v. Bài này có 44 chữ, 2 đoạn, mỗi đọan 4 câu với 2 trắc vận. Cách luật:

 

X T T B B cú

X T B B T vận

X T B B T T B cú

X T B B T vận

 

X T T B B cú

X T B B T vận

X T B B T T B cú

X T B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Cổ giản 古澗 = cổ đại giản 古代澗: dòng suối cổ xưa

3- Đóa : ngày xưa dùng như chữ “Đóa : trốn tránh”.

4- Khế : cảm thông, hợp với nhau. Thác khế 託契: hai bên tin tưởng và tâm đầu ý hợp với nhau.

5- Phong lưu 風流: phong nhã tiêu sái, không bị câu thúc.

 

Dịch Nghĩa

Một cành mai nở bên dòng suối cổ xưa,

Không bị phong tỏa trong vườn.

Ở nơi núi sâu thâm đường xa mai không sợ lạnh,

Tự tránh ngày xuân (náo nhiệt).

 

Ưu tư thâm sâu của mai nào ai biết?

Khó tìm được kẻ tâm đầu ý hợp.

Chỉ có tự mình phong lưu sái thoát tỏa hương thơm,

Trăng sáng thường đến với cành mai.

 

Phỏng Dịch

Bốc Toán Tử - Hoa Mai

 

Suối cổ một cành mai,

Không bị vườn rừng khóa.

Không sợ lạnh đường xa núi sâu.

Tránh với xuân lan tỏa.

 

Ưu tư ai biết cho?

Cậy bạn khó nhờ vả.

Chỉ tự phong lưu tự phát hương,

Tìm tớ vầng trăng tỏ.

 

HHD 09-2021

 

 

 

 

Tuesday, September 14, 2021

Tương Kiến Hoan - Chu Đôn Nho

相見歡 - 朱敦儒  Tương Kiến Hoan – Chu Đôn Nho

 

金陵城上西                   Kim Lăng thành thượng tây lâu.

倚清                               Ỷ thanh thâu (thu).

萬里夕陽垂地、大江Vạn lý tịch dương thùy địa, đại giang lưu.

 

中原                               Trung nguyên loạn,

簪櫻                               Trâm anh tán,

幾時                               Kỷ thời thâu.

試倩悲風吹淚、過揚Thí thính bi phong xuy lệ, quá Dương châu.

 

Chú Thích

1- Tương Kiến Hoan 相見歡: tên từ bài, tên khác là “Ô dạ đề 烏夜啼”, “Thu dạ nguyệt 秋夜月”, “Thượng tây lâu 上西樓” v.v. Bài này có 36 chữ, đoạn trên có 3 bình vận, đoạn dưới có 2 trắc vận, 2 bình vận. Cách luật:

 

X B X T B B bình vận

T B B vận

X T X B X T, T B B vận

  

X X T trắc vận

X X T vận

T B B bình vận

X T X B X T, T B B vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần.

 

2- Kim Lăng 金陵: ngày nay là Nam Kinh, TH.

3- Thành thượng tây lâu 城上西樓: cửa tây của tòa lầu xây trên thành.

4- Ỷ thanh thu 倚清秋: dựa cửa tây lầu nhìn cảnh thu trong sáng.

5- Tịch dương thùy địa  夕陽垂地: ánh sáng chiều tỏa trên mặt đất.

6- Đại giang 大江: tức sông Trường giang, TH.

7- Trung nguyên loạn 中原亂: chiến tranh giữa nước Kim 金 và nước Tống .

8- Trâm anh 簪纓: chỉ bọn quan liêu quý tộc như tác giả.

9-Thâu (thu) : thu phục đất nước.

10- Thí : dùng.

11- Thính (thiến) : mời, nhờ.

12- Dương châu 揚州: thị trấn Dương Châu, nay thuộc tỉnh Giang Tô 江蘇, TH, nơi bị quân nước Kim tấn công.

 

Dịch Nghĩa

Tại cửa tây của nhà lầu trên thành Kim Lăng.

Dựa (cửa) nhìn cảnh thu trong sáng.

Trong khung cảnh dài vạn dặm, ánh tịch dương chiếu xuống đất,

Dòng sông Trường giang (cuồn cuộn) chẩy.

 

Đất trung nguyên đang có loạn (Nưóc Kim đánh Tống).

Các quan sơ tán.

Bao giờ mới thu lại được nước cũ.

Nhờ ngọn gió buồn thổi nước mắt (của tôi) về Dương Châu.

 

Phỏng Dịch


1 Tương Kiến Hoan - Loạn Ly

 

Kim Lăng thành quách tây lâu.

Dựa thanh thu.

Vạn dặm tịch dương chạm đất, nước sông sâu. 

 

Trung nguyên loạn.

Quan liêu tán.   

Lúc nào thâu.

Thử mượn gió buồn thổi lệ, đến Dương Châu.

 

2 Loạn Ly

 

Trên thành đứng dựa cửa tây lâu,

Trong sáng Kim Lăng thu tỏa mầu.

Tịch dương lặng lẽ soi ngàn dặm,

Cuồn cuộn Trường giang dòng nước sâu.

 

Loạn ly lan khắp miền trung thổ,

Tài tử trâm anh bạt tứ xứ.

Bao giờ mới lại về nhà xưa,

Giọt lệ sầu quê nguyện gửi gió.

 

HHD 09-2021