Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Wednesday, February 28, 2024

Giang Thành Tử - Hòa Ngưng

江城子 - 和凝 Giang Thành Tử - Hòa Ngưng

 Kỳ 1


竹裏風生月上     Trúc lý phong sinh nguyệt thượng môn.

理秦                      Lý tần tranh,

                      Đối vân bình.

輕撥朱弦,恐亂馬嘶  Khinh bát chu huyền, Khủng loạn mã tê thanh.

含恨含獨自語:     Hàm hận hàm kiều độc tự ngữ:

今夜約,                      Kim dạ ước,

                      Thái trì sinh!

 

Chú Thích

1 Giang thành tử 江城子: tên từ bài, tên khác làgiang thần tử 江神子, thôn ý viễn 村意远, thủy tinh liêm 水晶帘. Vào thời Đường  chỉ có đơn điệu. Đến thời Tống có song điệu. Bài này có 35 chữ, 8 câu, 5 bình vận. Cách luật: 

 

X X B X X X B vận

T B B vận

X X B vận

X X X X tục X T T B B vận

X T X B X T T cú

X X T cú

T B B vận

 

2 Trúc lý phong sinh 竹裏風生: gió thổi qua bụi trúc.

3 Nguyệt thượng môn 月上門: trăng mới mọc, chiếu vào cửa nhà.

4 Lý : đàn qua lại, ôn tập.

5 Tần tranh 秦筝: cây đàn tranh, nguyên xuất phát từ nước Tần xưa.

6 Vân bình 雲屏: dùng 1 loại mica (vân mẫu 雲母) có hoa vân đẹp để trang sức tấm bình phong hoặc là trên tấm bình phong có vẽ hình mây mầu sắc.  

7 Chu huyền 朱弦: dây đàn làm bằng tơ luộc chín.

8 Khủng : lo sợ.

9 Mã tê thanh 馬嘶聲: tiếng ngựa hý.

10 Hàm hận hàm kiều 含恨含嬌: oàn hận và giận yêu.

11 Thái trì sinh 太遲生: quá chậm trễ. Chữ sinh chỉ được dùng làm trợ từ mà không có ý nghĩa gì hết.

 

Dịch Nghĩa

Tiếng gió lùa qua khóm trúc, trăng đã lên quá khung cửa.

Tập đàn tranh,

Đối diện tấm bình phong đẹp.

Nhẹ gẩy dây tơ, sợ tiếng đàn lấn át tiếng ngựa hý (chồng về hoặc tình lang đến).

Oán hận và giận yêu, lẩm bẩm nói một mình:

Ước hẹn đêm nay,

Chậm quá rồi.

 

Phỏng Dịch

 

1 Giang Thành Tử - Chờ Người

 

Gió lùa khóm trúc ánh trăng thanh,

Tập đàn tranh,

Đối tấm mành.

Nhẹ gẩy dây tơ,

Sợ át ngựa kêu mình.

Ôm hận buồn lòng lẩm bẩm nói

Đêm ước hẹn,

Lỡ sao đành.

 

2 Chờ Người

 

Gió lùa khóm trúc xinh xinh,

Trăng lên trước cửa, tập tành đàn tranh.

Dây tơ nhẹ gẩy trước mành,

Sợ rằng át tiếng đêm thanh ngựa về,

Tức lòng phụng phịu tái tê.

Một mình lẩm bẩm thôi thì đêm nay,

Ước hẹn quá muộn rồi đây.

 

HHD 11-2019

 

Kỳ 2


斗轉星移玉漏     Đẩu chuyển tinh di ngọc lậu tần.

已三                      Dĩ tam canh,

                      Đối thê oanh.

歷歷花間, 似有馬蹄Lịch lịch hoa gian,Tự hữu mã đề thanh.

含笑整衣開繡戶,     Hàm tiếu chỉnh y khai tú hộ,

斜斂手,                      Tà liễm thủ,

下階                      Hạ giai nghinh.

 

Chú Thích

1 Giang Thành Tử 江城子: tên từ bài, đơn điệu 35 chữ, 7 câu, 5 bình vận.

2 Đẩu chuyển tinh di 斗轉星移:  các ngôi sao trên bầu trời xoay chuyển theo thời gian trong đêm khi quả đất quay.

3 Ngọc lậu tần 玉漏頻: đồng hồ nước nhỏ giọt đều đều.

4 Thê : chim đậu. Thê oanh: chim oanh đậu (trên cành).

5 Lịch lịch 歷歷: rõ ràng, phân minh.

6 Mã đề 馬蹄: vó ngựa, móng ngựa. Mã đề thanh: tiếng vó ngựa.

7 Hàm tiếu 含笑: cười mỉm, ngậm cười, có điều vui trong lòng.

8 Tú hộ 繡戶: màn cửa thêu hoa.

9 Liễm thủ 斂手: vòng tay cung kính.

10 Hạ giai下階: bước xuống bực thềm.

 

Dịch Nghĩa

Sao bắc đẩu đã xoay chuyển, sao dời đổi, cái đồng hồ nhỏ giọt đều đều.

Đã canh ba.

Đối diện là cành cây có chim oanh đậu.

Giữa khóm hoa rõ ràng tự nhiên có tiếng vó ngựa.

Lòng vui sướng sửa sang xiêm y, mở màn thêu.

Vòng tay cung kính,

Bước xuống thềm nghênh đón.

 

Phỏng Dịch

 

1 Giang Thành Tử - Đón Người

 

Sao chuyển đẩu xoay nước giọt đều,

Đã ba canh,

Oanh đậu cành.

Giữa hoa rành rành, tiếng vó ngựa vang lanh.

Kéo áo vén màn lòng hớn hở,

Vòng tay đón,

Xuống thềm nghênh.

 

2 Đón Người

 

Sao dời đẩu chuyển đêm tà,

Đồng hồ đã điểm canh ba trời lành.

Trên cành tối đậu chim oanh,

Giữa hoa vó ngựa rành rành âm vang.

Cười vui vén áo mở màn,

Vòng tay chào đón hân hoan xuống thềm.

 

HHD 11-2019

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

Tuesday, February 27, 2024

Lâm Giang Tiên - Sử Đạt Tổ

臨江仙 - 史達祖  Lâm Giang Tiên - Sử Đạt Tổ

 

倦客如今老矣,         Quyện khách như kim lão hỹ,

舊時可奈春何!         Cựu thời khả nại xuân hà!

幾曾湖上不經過。     Kỷ tằng hồ thượng bất kinh qua.

看花南陌醉,             Khán hoa nam mạch túy,

駐馬翠樓歌。             Trụ mã thúy lâu ca.

 

遠眼愁隨芳草,         Viễn nhãn sầu tùy phương thảo,

湘裙憶著春羅。         Tương quần ức trước xuân la.

枉教裝得舊時多。     Uổng giao trang đắc cựu thời đa.

向來簫鼓地             Hướng lai tiêu cổ địa,

猶見柳婆娑。             Do kiến liễu bà sa.

 

Chú Thích

1- Lâm Giang Tiên 臨江仙: tên từ bài, nguyên là một khúc ca của Đường giáo phường, sau dùng làm từ bài. Tên khác là “Tạ tân ân 謝新恩”, “Nhạn hậu quy 雁後歸”, “Họa bình xuân 畫屏春” v.v.

Cách luật bài này tương đồng với cách luật của Từ Xương Đồ徐昌圖:

 

X T X B B T cú

X B X T B B vận

X B X T T B B vận

X B B T T cú

X T T B B vận

  

X T X B B T cú

X B X T B B vận

X B X T T B B vận

X B B T T cú

X T T B B vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Quyện khách 倦客: người khách mệt mỏi, tác giả tự chỉ mình.

3- Hỹ (hĩ) : vậy, rồi.  

4- Cựu thời khả nại xuân hà 舊時可奈春: câu này có thể hiểu là “Cựu thời xuân vô khả nại hà 舊時春無可奈何”, mùa xuân vẫn đến hằng năm nhưng cảm nhận của tác giả đã không còn như những mùa xuân xưa. Xuân vẫn đến mà không làm sao được.

5- Bất kinh qua 不經過: ý nói không (thể không) trải qua.

6- Nam mạch 南陌: con đường phía nam, phiếm chỉ nơi du ngoạn.

7- Trú mã 駐馬: nghỉ lại, lưu lại.

8- Thúy lâu 翠樓: chỉ kỹ quán ca lâu.

9- Viễn nhãn 遠眼: trông xa, nhìn xa.

10- Tương quần 湘裙: quần phụ nữ may bằng lụa sản xuất ở Tương Châu 湘州, tên gọi tỉnh Hồ Nam 湖南, TH.

11- Xuân la 春羅: y phục may bằng lụa.

12- Uổng giao 枉教: uổng = uổng phí, giao = để cho; uổng giao = để cho (việc này xẩy ra) là uổng phí. Uổng giao trang đắc cựu thời đa 枉教裝得舊時多: (Mặc dù) những phục trang hiện tại (của các ca nữ) tốt đẹp hơn thời xưa nhiều nhưng điều này là uổng phí (vì cảm tình của tôi vẫn hướng về thời xưa).

13- Hướng lai 向來: từ trước đến nay như vậy, always; all along.

14- Tiêu cổ 簫鼓: bản khác chép ca vũ 歌舞. Tiêu cổ địa 簫鼓地: nơi có ca nhạc múa hát.

15- Bà sa 婆娑: xoay chuyển múa may.

 

Dịch Nghĩa

Người khách mệt mỏi nay đã già rồi,

Thế mà mùa xuân vẫn đến như khi xưa.

Bao nhiêu lần trên hồ mà tôi đã đi chơi qua.

Ngắm cảnh xem hoa uống rượu.

Lưu lại lầu thúy nghe hát.

 

 

Trông xa đám cỏ xanh mà xúc động nỗi sầu,

Nhớ lại những y phục bằng lụa và quần lụa Tương (của ca nhi).

Mặc dù trang phục ngày nay hơn thời xưa xa như chỉ uổng phí thôi. (vì lòng tôi vẫn hướng về xưa kia).

Từ trước đến nay những nơi ca vũ nhạc,

Còn thấy nhánh liễu phất phơ múa may (trong gió).

 

Phỏng Dịch

 

1- Lâm Giang Tiên – Hồi Ức

 

Mệt mỏi ta nay già cội,

Như xưa xuân vẫn mượt mà.

Bao lần hồ nước chẳng từng qua.

Xem hoa say phố cũ,

Dừng ngựa thúy lâu ca.

 

Xa ngắm cỏ thơm sầu muộn,

Nhớ xưa váy lụa quần là.

Uổng thay trang sức hơn xưa xa.

Xưa nay vùng tấu nhạc,

Còn thấy liễu lòa xòa.

 

2 Hồi Ức

 

Nay ta mệt mỏi già rồi,

Ngán thay xuân vẫn xanh tươi mượt mà.

Bao lần hồ nước trải qua,

Xem hoa nam mạch hát ca thúy lầu.

 

Cỏ thơm ngắm nghía muộn sầu,

Nhớ xưa xuân nữ một mầu váy tơ.

Uổng thay trang sức hơn xưa.

Hướng lai tiêu cổ nhạc thơ vùng này,

 

Còn nhìn dương liễu múa may.

 

HHD 07-2023

 

 

  

Sunday, February 25, 2024

Thiếu Niên Du - Tưởng Tiệp

少年遊 - 蔣捷  Thiếu Niên Du - Tưởng Tiệp

 

楓林紅透晚煙     Phong lâm hồng thấu vãn yên thanh,

客思滿鷗             Khách tứ mãn âu đinh.

二十年來,                 Nhị thập niên lai,

無家種竹,                 Vô gia chủng trúc,

猶借竹為             Do tá trúc vi danh.

 

春風未了秋風到,     Xuân phong vị liễu thu phong đáo,

老去萬緣             Lão khứ vạn duyên khinh.

只把平生,                 Chỉ bả bình sinh,

閒吟閒詠,                 Nhàn ngâm nhàn vịnh,

譜作棹歌             Phổ tác trạo ca thanh.

 

Chú Thích

1- Thiếu niên du 少年遊: tên từ bài, tên khác là thiếu niên du lệnh 少年遊令, tiểu lan can 小闌干, ngọc lạp mai chi 玉臘梅枝. Bài này có 50 chữ, dùng bình vận. Cách luật:

 

X B X T T B B vận

X T T B B vận

X B X T cú

X B X T cú

X T T B B vận

 

X B X T B B T cú

X T T B B vận

X T B B cú

X B X T cú

X T T B B vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Phong lâm 楓林: rừng cây phong.

3- Thấu : rất, hẳn, quá, hoàn toàn.

4- Khách tứ 客思: Kể lể phiêu bạc giang hồ lâu năm.

5- Âu đinh 鷗汀: bãi sông có nhiều chim, cò.

6- Nhị thập niên 二十年: kể từ khi quân mông cổ chiếm Trung Hoa cho đến khi tác giả viết bài này là 20 năm.

7- Vô gia chủng trúc, Do tá trúc vi danh 無家種竹,猶借竹為名: Tưởng Tiệp quê ở Trúc Sơn 竹山 nên lấy hiệu là “Trúc Sơn”, vì vậy nói “mượn trúc làm tên”. Tác giả luôn giang hồ đây đó, không về quê vì vậy nói “Vô gia chủng trúc”, hàm ý không an cư.

8- Vị liễu 未了: chưa dứt, chưa hết.

9- Duyên : nguyên nhân, đầu mối của sự vật.

10- Bình sinh 平生: trong đời, suốt đời.

11- Phổ tác 譜作: viết bài hát.

12- Trạo : mái chèo, đại chỉ thuyền. Trạo ca 棹歌: tiếng hát dân chèo thuyền hoăc là ngư ca 漁歌, tiếng hát dân chài.

 

Dịch Nghĩa

Rừng cây phong đã đỏ hoàn toàn, buổi chiều có khói xanh.

Không an cư, luôn phiêu bạc, ngày ngày đối diện bãi sông đầy chim cò.

Hai mươi năm nay,

Không ở quê nhà không trồng trúc,

Còn mượn chữ “Trúc” làm tên hiệu.

 

Gió xuân chưa hết hẳn thì gió thu đã tới (Thời gian qua nhanh),

Tuổi đã già thấy mọi mối trần duyên đều nhỏ nhặt.

Tôi chỉ đem (từng trải trong) cuộc đời,

Những ngâm vịnh nghêu ngao,

Viết thành bài hát thuyền ca, chài ca.

 

Phỏng Dịch

 

1 Thiếu Niên Du – Phiêu Bạc

 

Rừng phong đỏ thắm khói chiều xanh,

Sông nước vẫn đi quanh.

Hai chục năm nay,

Không nhà trồng trúc,

Mượn trúc gọi tên mình.

 

Gió xuân chưa dứt thu phong đến,

Già lão mọi duyên khinh.

Đem cả bình sinh,

Những bài ngâm vịnh,

Phổ nhạc hát chài thanh.

 

2 Phiêu Bạc

 

Rừng phong đỏ thắm khói chiều xanh,

Sông nước chim cò mãi quẩn quanh.

Xa quê hai chục năm không trúc,

Mượn trúc làm tên gọi hiệu mình.

 

Gió xuân chưa hết gió thu tới,

Nhỏ nhặt trần duyên lúc tuổi già.

Từng trải làm đề ngâm với vịnh,

Viết thành bài hát thuyền chài ca.

 

HHD 2- 2024

 

Thursday, February 22, 2024

Nhất Ngạc Hồng - Chu Mật

一萼紅 - 周密  Nhất Ngạc Hồng – Chu Mật

登蓬萊閣有感 Đăng Bồng Lai các hữu cảm

 

步深                               Bộ thâm u.

正雲黃天淡,                       Chính vân hoàng thiên đạm,

雪意未全                       Tuyết ý vị toàn hưu.

鑑曲寒沙,                           Giám khúc hàn sa,

茂林煙草,                           Mậu lâm yên thảo,

俯仰千古悠                   Phủ ngưỡng thiên cổ du du.

歲華晚、飄零漸遠,          Tuế hoa vãn, phiêu linh tiệm viễn,

誰念我、同載五湖      Thùy niệm ngã, đồng tải ngũ hồ châu?

磴古松斜,                           Đặng cổ tùng tà,

崖陰苔老,                           Nhai âm đài lão,

一片清                           Nhất phiến thanh sầu.

 

回首天涯歸夢,                   Hồi thủ thiên nhai quy mộng,

幾魂飛西浦,                       Kỷ hồn phi Tây Phố,

淚灑東                           Lệ sái Đông Châu.

故國山川,                           Cố quốc sơn xuyên,

故園心眼,                           Cố viên tâm nhãn,

還似王粲登                   Hoàn tự Vương Xán đăng lâu.

最負他、秦鬟妝鏡,          Tối phụ tha, Tần hoàn trang kính,

好江山、何事此時      Hảo giang sơn, hà sự thử thời du!

為喚狂吟老監,                   Vi hoán cuồng ngâm lão giám,

                           Cộng phú tiêu ưu.

 

Chú Thích

1- Nhất ngạc hồng 一萼紅: tên từ bài. Từ điệu nhất ngạc hồng có thể dùng vần bằng hay vần trắc. Cách luật dùng vần bằng có từ thời Khương Quỳ 姜夔:

 

 

T B B vận

T X B X T cú

X T T B B vận

X T B B cú

X B X T cú

X T X T B B vận

T X T, X B X T cú

X X X, B T T B B vận

X T B B cú

X B X T cú

X T B B vận

 

X T X B X T cú

T X B X T cú

X T B B vận

X T B B cú

X B X T cú

X X X T B B vận

T X X, B B X T cú

X X X, X T T B B vận

X T X B X X cú

X T B B vận

 

B: thanh bằng; T: thanh trắc; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Bồng Lai các 蓬萊閣: xưa ở chân núi Ngọa Long sơn 卧龍山, huyện Thiệu Hưng 紹興 tỉnh Chiết Giang 浙江, TH.

3- Bộ : bước lên.

4- Chính : chính lúc.

5- Toàn hưu 全休: hoàn toàn hết.  

6- Giám khúc 鑑曲 = Giám hồ nhất khúc 鑑湖一曲: một khúc của Giám hồ. Sách “Hạ Tri Chương truyện 賀知章傳” chép rằng khi ông Hạ về hưu thì vua Đường Huyền Tông 唐玄宗 hạ chiếu cấp cho ông “Kính hồ Diệm Xuyên nhất khúc 鏡湖剡川一曲: một khoảnh đất ở vùng Kính Hồ Diệm Xuyên”. Kính hồ tức Giám hồ 鑑湖, còn có tên khác là “Trường hồ 長湖”, “Khánh hồ 慶湖”, ở tỉnh Chiết Giang 浙江, TH. Dòng suối Diệm Xuyên 剡川 không rõ tại đâu. Trong bài này chữ Giám khúc chỉ một khúc của Giám hồ (Giám hồ vốn rất dài và chia ra nhiều nhánh).

7- Mậu lâm 茂林: chỉ khu vườn rừng “Lan đình 蘭亭” ở chân núi Lan Chử sơn 蘭渚山, huyện Thiệu Hưng 紹興 tỉnh Chiết Giang 浙江, TH. Nơi đây, thời Xuân Thu 春秋, Việt Vương Câu Tiễn 越王勾踐 đã từng trồng rất nhiều hoa lan. Đến thời Hán 漢 triều thì được thiết lập dịch đình 驛亭. Vì vậy sau này có tên là Lan Đình. Vào thời Đông Tấn 東晉, nhà thư pháp văn học gia Vương Hy Chi 王羲之 cư ngụ tại đây và đã viết ra tập “Lan Đình Tâp Tự 蘭亭集序” rất nổi tiếng.

8- Phủ ngưỡng 俯仰: còn viết là “Phủ ngưỡng 俛仰” hay “Phủ ngưỡng chi gian 仰之間: thời gian giữa lúc cúi xuống và ngửng lên”, ý nói thời gian qua nhanh, việc quá khứ nay đã là sự tích.

9- Du du 悠悠: xa thăm thẳm.

10- Tuế hoa 歲華: tuổi trẻ.

11- Thùy niệm ngã 誰念我: ai hiểu được tôi, ai đồng tình với tôi.

12- Ngũ hồ 五湖: có nhiều thuyết nói về chữ “Ngũ hồ”. Thuyết nay không giống thuyết xưa. Thuyết xưa chuyên chỉ Ngũ Hồ là Thái Hồ, hoặc Thái Hồ và những vùng phụ cận. Theo sách “Sử ký hà cừ thư tập giải 史記河渠書集解” thì chữ “Ngũ Hồ” chỉ là tên của một cái hồ duy nhất tức là “Thái Hồ太湖”, nơi Phạm Lãi 范蠡 và Tây Thi đi ẩn cư sau chiến tranh Ngô -Việt . Ngũ hồ châu五湖: chiếc thuyền ngao du ngũ hồ.

13- Đặng : thềm đá, chỉ đường đi trong núi.

14- Nhai âm 崖陰: vùng sườn núi.

15- Thanh sầu 清愁: tình tự sầu muộn thê lương.

16- Kỷ  = kỷ độ 幾度 = kỷ thứ 幾次: bao lần, nhiều lần.

17- Tây Phố 西浦 và Đông Châu 東州: địa danh, ở vùng Thiệu Hưng 紹興, tỉnh Chiết Giang 浙江, TH.

18- Cố viên 故園: chỉ cố hương.

19- Vương Xán đăng lâu 王粲登樓: bài phú “Đăng lâu 登樓” của Vương Xán 王粲. Vương Xán là người cuối triều đại Đông Hán 東漢, vì chạy loạn đến ở Kinh Châu và làm bài “Đăng lâu phú 登樓” trong đó có câu:

 

雖信美而非吾土兮,Tuy tín mỹ nhi phi ngô thổ hề,

曾何足以少留。Tằng hà túc dĩ thiểu lưu.

Tuy chỗ này thật đẹp nhưng không phải quê hương ta,

Sao có thể đáng cho ta ở lại mãi?

 

20- Phụ = cô phụ辜負: ruồng bỏ. 

21- Tần hoàn 秦鬟: Núi Tần Vọng sơn 秦望山 ở huyện Thiệu Hưng 紹興 tỉnh Chiết Giang 浙江 trông giống như hình búi tóc. Cũng có thuyết nói “Tần hoàn” có nghĩa là búi tóc của cô gái họ Tần trong bài hát nhạc phủ 樂府Mạch thượng tang 陌上桑: “Tần thị hữu hảo nữ, tự danh vi La Phu 秦氏有好女,自名為羅敷: bà họ Tần có con gái tốt, đặt tên là La Phu”. Xét ra câu chuyện Tần La Phu không có liên quan gì đến bài từ này của Chu Mật.

22- Trang kính 妝鏡: cái gương của phụ nữ dùng khi trang điểm, ám chỉ Kính hồ 鏡湖.

23- Cuồng ngâm lão Giám 狂吟老監: tức là nhà thơ, nhà thư pháp đời Đường tên là Hạ Tri Chương 賀知章, tự là Quý Chân 季真, quê ở Hàng Châu 杭州. Ông đỗ trạng nguyên đời Võ Tắc Thiên Chứng Thánh nguyên niên 武則天證聖元年. Trên thi đàn ông ngang hàng với các thi nhân đương thời như Trương Nhược Hư張若虛, Trương Húc 張旭, Lý Bạch 李白, Trần Tử Ngang 陳子昂 v.v. Lúc già ông về hưu trí được vua ban tặng “Kính Hồ Diệm Xuyên nhất khúc 鏡湖剡川一曲”. Ông lấy hiệu là “Tứ Minh Cuồng Khách 四明狂客” và “Bí Thư Ngoại Giám 秘書外監”, thường ngao du ngâm vịnh. Thơ của ông bị thất lạc, nay chỉ còn 19 bài trong Toàn Đường Thi. Lý Bạch 李白 có câu thơ “Đối Tửu Ức Hạ Giám 對酒憶賀監: uống rượu nhớ Hạ Giám” như sau:

 

四明有狂客,Tứ minh hữu cuồng khách,

風流賀季真。Phong lưu Hạ Quý Chân.

Trong núi Tứ Minh có người cuồng khách,

Đó là người phong lưu tên Hạ Quý Chân.

 

Nhắc đến Hạ Tri Chương, tác giả tỏ ý muốn được như người xưa, ngâm vịnh tiêu sầu, hoài niệm bạn hữu.

 

24- Phú : ngâm vịnh thi từ.

 

Dịch Nghĩa

Cảm tác khi lên Bồng Lai các.

Đi bộ vào con đường thâm u khúc khuỷu.

Chính lúc mây vàng trời nhạt,

Hơi lạnh do tàn tuyết chưa hết.

Bãi cát ở khúc (này của) Giám Hồ lạnh lẽo,

Rừng cây cỏ tốt tươi phủ khói sương,

(Tựa như) trong thời gian cúi xuống ngửa lên (ngắn ngủi), thiên cổ đã xa thăm thẳm.

Tuổi đã về già, mình đi phiêu linh càng xa,

Còn ai đồng tình với tôi, cùng ngồi thuyền đi ngao du ngũ hồ?

Nơi thềm đá có cây tùng nghiêng vẹo bên cạnh,

Trên vùng sườn núi, rêu mọc đầy già cỗi.

Một phiến tình tự sầu muộn.

 

Ngoảnh đầu lại, từ nơi thiên nhai mộng về quê,

Bao lần hồn mộng bay về Tây Phố,

Khóc sướt mướt ở Đông Châu.

Cố quốc giang sơn,

Tâm hồn hướng về làng xưa.

Cũng như Vương Xán xưa, khi lên lầu (buồn rầu nhớ quê),

Mình đã phản bội, (núi Tần Vọng Sơn trông như hình) mỹ nữ búi tóc nhìn gương Kính Hồ trang điểm.

Giang sơn ơi, làm sao có thể đi chơi được trong lúc này,

Se sẽ gọi tên những bạn cuồng ngâm xưa,

Cùng mình ngâm vịnh giải ưu phiền.

 

Phỏng Dịch

 

1 Nhất Ngạc Hồng

 

Bước thâm u.

Lúc mây vàng trời nhạt,

Tuyết ý vẫn lu bù.

Cát lạnh hồ trong,

Cỏ rừng sương khói,

Thấp thoáng kim cổ du du.

Tuổi thơ hết, nổi trôi xa mãi,

Ai theo tôi, chèo khắp chốn năm hồ?

Thềm đá tùng nghiêng,

Sườn non rêu cỗi,

Một phiến u sầu.

 

Nhìn lại mơ về xa thẳm,

Mấy lần hồn Tây Phố,

Lệ ướt Đông Châu.

Nước cũ sơn xuyên,

Vườn xưa lưu luyến,

Cũng như Vương Xán lên lầu.

Đã phản bội, non Tần soi nước,

Non sông hỡi, du ngoạn lúc này sao.

Gọi sẽ bạn bè xưa ấy,

Giải muộn cùng nhau.

 

2

 

Quanh co dấn bước đường hoang,

Mây vàng trời nhạt tuyết tàn chưa tan. 

Giám Hồ khúc, cát lạnh tanh,

Cỏ rừng sương khói nhìn nhanh đất trời.

 

Cổ kim một thoáng xa vời,

Không còn tuổi trẻ cuộc đời phiêu linh.

Có ai đồng cảm với mình,   

Ngồi thuyền du ngoạn loanh quanh năm hồ.

 

Thềm đá cổ, tùng lệch xô,

Sườn non rêu phủ sầu mơ một vùng.

Về quê ngàn dặm trông mong,

Bao lần hồn mộng bay vòng phố Tây.

 

Đông Xuyên lệ ướt đêm ngày,

Nước xưa sông núi mắt say quê mình.

Nơi đây dù cảnh đẹp xinh,

Luyến lưu cố lý chân tình cố hương.

 

Phản bội rồi, Tần Hoàn thương,

Giang sơn mỹ hảo còn vương nỗi sầu.

Lúc này du ngoạn được sao?

Gọi tên bạn cũ năm nào bên nhau.

 

Cùng mình ngâm vịnh giải ưu.

 

HHD 12-2023