Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Thursday, January 13, 2022

Tây Giang Nguyệt - Tân Khí Tật 2

西江月 - 辛棄疾  Tây Giang Nguyệt – Tân Khí Tật

漁父詞  Ngư phụ từ

 

千丈懸崖削翠,         Thiên trượng huyền nhai tước thúy,

一川落日         Nhất xuyên lạc nhật dung kim.

白鷗來往本無     Bạch âu lai vãng bản vô tâm.

選甚風波         Tuyển thậm phong ba nhất nhậm.

 

別浦魚肥堪膾,         Biệt phố ngư phì kham quái,

前村酒美重         Tiền thôn tửu mỹ trùng châm.

千年往事已沈     Thiên niên vãng sự dĩ trầm trầm.

閒管興亡則        Nhàn quản hưng vong tắc thậm.

 

Chú Thích

1- Tây Giang Nguyệt 西江月: nguyên la bài hát của Đường giáo phường, sau dùng làm từ điệu. Điệu này có 50 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn 2 bình vận và 1 hoặc 2 diệp vận (cùng vận nhưng khác thanh). Cách luật:

 

X T X B X T cú

X B X T B B vận

X B X T T B B vận

X T X B X T diệp vận

 

X T X B X T cú

X B X T B B vận

X B X T T B B vận

X T X B X T diệp vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Huyền nhai 懸崖: vách núi dựng đứng.

3- Tước thúy  = 峭翠: ngọn núi chót vót xanh biếc.

4- Nhất xuyên一川: đầy sông.  

5- Lạc nhật 落日: ngày tàn, mặt trời xế bóng, mặt trời sắp lặn.

6- Dung kim 鎔金: vàng hay chất kim thuộc bị nung chẩy.

7- Tuyển thậm 選甚: không kể thế nào.  

8- Nhất nhậm 一任: mặc kệ, tùy ý.

9- Biệt phố 別浦: chỗ sông đổ ra biển đổ vào dòng sông khác, hoặc đơn giản hơn là “bến sông”.  

10- Quái (khoái) : thái thịt, cá thành từng miếng mỏng.

11- Trùng châm重斟: rót rượu lần nữa.

12- Trầm trầm 沉沉: chìm xa, mai một.

13- Nhàn quản 閒管: không lo hay lo đến cũng chẳng sao.

14- Tắc thậm 則甚: làm cái gì.

 

Dịch Nghĩa

Lời ngư ông

Vách núi cao ngàn trượng chót vót xanh biếc,

Đầy sông mầu vàng chẩy khi mặt trời lặn.

Chim bạch âu bay qua bay lại vốn là tự nhiên.

Không kể thế nào, sóng gió không dự liệu được.

 

Ở bến sông cá béo, khó cưỡng phải thái ra ăn,

Rót thêm nữa rượu ngon mua từ thôn trước.

Chuyện cũ từ ngàn năm đã chìm sâu (vào quên lãng),

Lo đến chuyện hưng vong làm cái gì.

 

Phỏng Dịch

Tây Giang Nguyệt - Lời Ngư Phủ

 

Vách núi nhọn xanh ngàn trượng,

Chiều về sông nhuộm mầu vàng.

Chim câu qua lại vốn không màng,

Chẳng kể gió mưa ai quản.

 

Bến nước cá ngon khó cưỡng,

Làng bên rượu quý thêm tràn.

Ngàn năm chuyện cũ đã suy tàn,

Để mặc hưng vong quên lãng.

 

HHD 01-2022

 

  

Mãn Giang Hồng - Tân Khí Tật 2

滿江紅 - 辛棄疾  Mãn Giang Hồng – Tân Khí Tật

 

敲碎離愁,                 Xao toái ly sầu,

紗窗外、風搖翠Sa song ngoại, phong dao thúy trúc.

人去後、吹簫聲斷,Nhân khứ hậu, xuy tiêu thanh đoạn,

倚樓人                 Ỷ lâu nhân độc.

滿眼不堪三月暮,     Mãn nhãn bất kham tam nguyệt mộ,

舉頭已覺千山     Cử đầu dĩ giác thiên sơn lục.

但試將一紙寄來書,Đãn thí tương, nhất chỉ ký lai thư,

從頭                      Tùng đầu độc.

 

相思字,                      Tương tư tự,

空盈                      Không doanh bức.

相思意,                      Tương tư ý,

何時                      Hà thời túc?

滴羅襟點點,             Trích la khâm điểm điểm,

淚珠盈                 Lệ châu doanh cúc.

芳草不迷行客路,     Phương thảo bất mê hành khách lộ,

垂楊只礙離人     Thùy dương chỉ ngại ly nhân mục.

最苦是、立盡月黃昏,Tối khổ thị, lập tận nguyệt hoàng hôn,

闌干                     Lan can khúc.

 

Chú Thích

1- Mãn giang hồng 滿江紅: tên từ bài, có thể dùng vần bằng hay vần trắc. Người đời Tống hay dùng vần trắc. Cách luật biến đổi không đồng đều. Bài từ của Liễu Vĩnh được coi là chính thể. Bài này gồm 93 chữ, đoạn trước có 4 trắc vận, đoạn sau có 5 trắc vận. Cách luật:

 

X T B B cú

X X T, X B X T vận

X X X, X B X T cú

X B B T vận

X T X B B T T cú

X B X T B B T vận

T X X, X T T B B cú

B B T vận

 

B X T cú

B X T vận

B X T cú

B B T vận

X X X X X cú

X X B T vận

X T X B B T T cú

X B X T B B T vận

X X X, X T T B B cú

B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Xao toái ly sầu 敲碎離愁: đập nát cái sầu ly biệt.

3- Sa song 紗窗: cửa sổ có treo màn lụa.

4- Phong dao thúy trúc 風搖翠竹: gió lắc khóm trúc xanh. Mượn câu thơ của tần Quan 秦觀 trong bài từ “Mãn đình phương 滿庭芳”:

 

風搖翠竹,Phong dao thúy trúc, Gió lắc khóm trúc xanh,

疑是故人來。Nghi thị cố nhân lai. Nghi là bạn cũ đến”.

 

5- Xuy tiêu thanh đoạn 吹簫聲斷: tiếng thổi tiêu đã ngừng, ám chỉ người tình của nữ chủ nhân đã đi xa.

6- Ỷ lâu nhân độc 倚樓人獨: chỉ một mình dựa lầu hoặc dựa lan can trên lầu cao.

7- Bất kham 不堪: không cấm được, không nhịn được.

8- Tam nguyệt mộ 三月暮 = tam nguyệt xuân dĩ chí mộ 三月春已至暮: tháng ba xuân đã tàn, cảnh sắc lúc cuối xuân.

9- Mãn nhãn bất kham tam nguyệt mộ 滿眼不堪三月暮: Nhìn cảnh sắc lúc cuối xuân mà lòng không nhịn được thương cảm.

10- Thiên sơn lục 千山綠: ngàn núi một mầu xanh. Chỉ xuân đã tàn, mùa hè đã sang.

11- Nhất chỉ ký lai thư 一紙寄來書: một phong thư gửi đến.

12- Tương tư tự, không doanh bức 相思字, 空盈幅: chữ tương tư (trong thư) đầy khắp.

13- Tương tư ý, hà thời túc 相思意, 何時足: nỗi tương tư này lúc nào mới hết.

14- Trích (tích) : giọt nước.

15- La khâm 羅襟: áo lụa.

16- Lệ châu淚珠: giọt nước mắt trông giống như hạt ngọc.

17- Doanh cúc 盈掬: một nắm đầy, rất nhiều.

18- Hành khách 行客: chỉ người tình của nữ chủ nhân.

19- Phương thảo bất mê hành khách lộ 芳草不迷行客路: cỏ thơm không làm lạc lối (về) của người khách (đi xa), lấy ý từ bài thơ “Biệt hữu nhân 别友人” của nhà sư Duy Thẩm 惟審 đời Đường (có người nói của Linh Nhất 靈一 cùng thời):

 

芳草迷歸路,Phương thảo mê quy lộ, cỏ thơm lạc đường về,

春流滴淚痕。Xuân lưu trích lệ ngân. Ngày xuân lưu lại dấu vết của giọt lệ”.

 

19 Thùy dương 垂楊: cây liễu rủ.

20- Ngại ; che khuất, ngăn trở.

21- Ly nhân 離人: người buồn vì ly biệt, nữ chủ nhân tự xưng.

20- Lập tận nguyệt hoàng hôn 立盡月黃昏: đứng từ sáng đến hoàng hôn lúc trăng lên.

21- Lan can khúc 欄幹曲: góc cạnh của lan can.

 

Dịch Nghĩa

Nỗi buồn vì ly biệt bị đập vùi tan nát,

Ngoài tấm màn lụa trên khung cửa sổ, gió thổi lay động khóm trúc xanh.

Sau khi người đi, tiếng tiêu đứt đoạn,

Một mình cô đơn đứng dựa trên lầu.

Không cam tâm nhìn cảnh sắc cuối xuân tràn đầy tước mắt.

Ngẩng đầu nhìn đã thấy ngàn núi mầu xanh lục (hoa tàn hết, lá tràn đầy).

Nhưng thử đem một lá thư (do người tình ở xa) gửi về,

Đọc từ đầu.

 

Những chữ (tỏ lời) tương tư thương nhớ,

Tràn đầy bức thư.

Cái nỗi tương tư,

Bao giờ được mãn nguyện?

Những giọt nước rơi trên áo lụa,

Lệ châu ràn rụa.

(Đãn nguyện) cỏ thơm không làm lạc lối (về) của người khách đi (xa),

Cành liễu rủ che khuất đôi mắt (ngóng trông) của người bị chia ly.

Khổ nhất là, đứng suốt cho tới hoàng hôn lúc trăng lên, 

O góc cạnh lan can (ngóng trông).

 

Phỏng Dịch

1 Mãn Giang Hồng-Giọt Lệ Tương Tư

 

Đập vỡ ly sầu,

Ngoài màn lụa, gió lay khóm trúc.

Người đi rồi, tiếng tiêu đã dứt,

Dựa lầu đơn độc.

Cảnh sắc cuối xuân buồn quá đỗi,

Ngửng đầu thấy núi toàn xanh lục.

Nhưng thử đem, thư tín mới vừa về,

Từ đầu đọc.

 

Tương tư chữ,

Nhiều quá mức.

Tương tư ý,

Còn chờ lúc.

Từng giọt hoen áo luạ,

lệ châu rưng rức.

Phương thảo người đi không lạc bước,

Thùy dương che mắt sầu man mác.

Đau khổ nhất, đứng lặng nguyệt hoàng hôn,

Lan can khúc.

 

2 Giọt Lệ Tương Tư

 

Ngoài song khóm trúc gió lay,

Mối sầu đập nát tình này người đi.

Tiếng tiêu đứt đoạn chia ly,

Một mình ngắm cảnh tình si xuân tàn.

Ngửng đầu xanh ngát thiên san,

Người yêu thư tín xa ngàn về đây.

Thử xem đầu cuối thư dài,

 

Tương tư chữ nghĩa lấp đầy giấy xanh.

Tương tư ý bao giờ thành.

Lệ châu hoen áo rớt nhanh giọt buồn.

Người đi phương thảo mê hồn,

Chân không lạc bước lối mòn quê xưa.

Thùy dương che mắt ngẩn ngơ,

Khổ lòng đứng lặng trăng mờ hoàng hôn.

Lan can một góc ngóng trông.   

 

HHD 01-2022

 

 

 

Mãn Giang Hồng - Tân Khí tật

滿江紅 - 辛棄疾 Mãn Giang Hồng – Tân Khí Tật

暮春  Xuân Mộ

 

家住江南,                           Gia trú Giang Nam

又過了、清明寒          Hựu quá liễu, Thanh minh Hàn thực.

花徑裏、一番風雨,          Hoa kính lý, nhất phiên phong vũ,

一番狼                           Nhất phiên lang tịch.

紅粉暗隨流水去,              Hồng phấn ám tùy lưu thủy khứ,

園林漸覺清陰              Viên lâm tiệm giác thanh âm mật.

算年年、落盡刺桐花,      Toán niên niên, lạc tận thích đồng hoa,

寒無                               Hàn vô lực.

  

庭院靜,                               Đình viện tĩnh,

空相                               Không tương ức.

無説處,                               Vô thuyết xứ,

閒愁                               Nhàn sầu cực.

怕流鶯乳燕,                       Phạ lưu oanh nhũ yến,

得知消                           Đắc tri tiêu tức.

尺素始今何處也,              Xích tố thủy kim hà xứ dã,

彩雲依舊無蹤              Thải vân y cựu vô tung tích.

謾教人、羞去上層樓,      Mạn giao nhân, tu khứ thướng tằng lâu,

平蕪                               Bình vu bích.

 

Chú Thích

1- Mãn giang hồng 滿江紅: tên từ bài, gồm 93 chữ, đoạn trước có 4 trắc vận, đoạn sau có 5 trắc vận. Cách luật:

 

X T B B cú

X X T, X B X T vận

X X X, X B X T cú

X B B T vận

X T X B B T T cú

X B X T B B T vận

T X X, X T T B B cú

B B T vận

 

B X T cú

B X T vận

B X T cú

B B T vận

X X X X X cú

X X B T vận

X T X B B T T cú

X B X T B B T vận

X X X, X T T B B cú

B B T vận

 

2- Thanh minh 清明và Hàn thực 寒食: là 2 lễ tiết trong mùa xuân, khoảng 105 ngày sau ngày đông chí. Tiết Thanh minh trước tiết Hàn thực vài ngày.

3- Hoa kính lý 花徑裏: trong con đường nhỏ có trồng nhiều hoa.

4- Nhất phiên phong vũ 一番風雨: một trận mưa gió. Nhất phiên lang tạ 一番狼籍: một phen tán loạn.

5- Lang tịch hay lang tạ 狼籍: tán loạn, ngổn ngang.

6- Hồng phấn 紅粉: hồng hoa.

7- Thanh âm 清陰: bóng mát cây xanh.

8- Niên niên年年: hằng năm, năm này qua năm khác.

9- Thích đồng hoa 刺桐花: tức là hải đồng hoa 海桐花, nở hoa vào mùa xuân, có mầu trắng, vàng, hồng hoặc tím.

10- Đình viện 庭院: khu sân vườn quanh nhà.

11- Nhàn sầu 閒愁: trong bài này chữ nhàn sầu hàm nghĩa “vì việc nước mà sầu muộn.

12- Lưu oanh nhũ yến 流鶯乳燕: chim oanh bay nhẩy và chim yến non. Tác giả dùng chữ này để ám chỉ bọn nịnh thần.

13- Xích tố 尺素: thư tín.

14- Thải vân 彩雲: mây mầu, ám chỉ người mà tác giả đang tưởng niệm. bản khác chép “Lục vân 綠雲”, cùng một ý nghĩa.

15- Mạn : uổng, hão, không. Trong bài này chữ “Mạn” có thể hiểu là “Hoàn toàn”, “Thực là”. Mạn giao nhân 謾教人:  thực là làm cho tôi, hoàn toàn làm cho tôi.

16- Tu : mắc cỡ, xấu hổ, thẹn.

17- Tằng lâu 層樓: lầu cao.

18- Bình vu 平蕪: bình nguyên.

 

Dịch Nghĩa

Cuối xuân.

Nhà tôi ở Giang Nam,

Lại qua một lần tiết Thanh minh và Hàn thực.

Một trận mưa gió trên con đường hoa,

Một lần tán loạn.

Hoa rụng âm thầm theo nước trôi đi,

Trong vườn rừng dần cảm thấy bóng cây dầy đặc.

Tính ra thì hằng năm lúc thích đồng hoa rụng hết,

Cái lạnh mất luôn.

 

Sân vườn yên tĩnh,

Tôi chỉ nhớ đến nhau (nhớ đến bạn cùng lo quốc gia đại sự).

Không có nơi nào để nói (không nói với ai được),

Buồn bực hết sức (vì quốc gia).

Sợ chim oanh và chim yến nhỏ (sợ bọn gian thần dòm ngó)

Biết được tin tức.

Như nay không biết thư tín ở nơi đâu,

Người mà tôi tưởng nhớ vẫn không có tung tích.

Thực là làm tôi không còn mặt mũi bước lên lầu cao (trông ngóng),

(Nếu lên lầu cũng chỉ thấy) bình nguyên một mầu xanh (mà không thấy ai).

 

Phỏng Dịch

1- Mãn Giang Hồng- Xuân Muộn

 

Nhà ở Giang Nam,

Lại qua nữa, Thanh minh Hàn thực.

Hoa lối ngõ, một phiên mưa gió,

Một phiên tan tác.

Hoa héo âm thầm theo nước cuốn,

Vườn rừng dần thấy cây xanh mát.

Tính năm năm, héo tận khóm đồng hoa,

Lạnh không sức.

 

Sân vườn tĩnh,

Nhớ hết sức.

Không chỗ nói,

Buồn vô cực.

Sợ chim oanh yến nhỏ,

Biết được tin tức.

Thư tín đến nay về đâu đó,

Mây mầu sao vẫn vô tung tích.

Làm cho tôi, mất mặt lên lầu cao,

Vùng xanh biếc.

 

2- Xuân Muộn

 

Nhà tôi trú ngụ Giang nam,

Thanh minh hàn thực âm thầm qua mau.

Đường hoa mưa gió dãi dầu,

Một phen tán loạn bạc mầu hoa rơi.

Thân tùy lưu thủy xa khơi,

Vườn rừng dần thấy xanh tươi mượt mà.

Năm năm héo tận đồng hoa,

Mùa đi lạnh hết ngày qua êm đềm.

 

Sân vườn tĩnh lặng bình yên,

Nhớ nhung câm lặng sầu lên ngập lòng.

Sợ oanh sợ yến ngóng trông,

Dò la tin tức lập công hại người.

Chốn nao thư tín xa vời,

Mây mầu ngày ấy bên trời thất tung.

Lên lầu luống phải thẹn thùng,

Bình nguyên bát ngát mịt mùng cỏ xanh.

 

HHD 01-2022

 

 

 

Sunday, January 9, 2022

Tây Giang Nguyệt - Tân Khí Tật

西江月 - 辛棄疾  Tây Giang Nguyệt – Tân Khí Tật

夜行黃沙道中 Dạ hành Hoàng Sa đạo trung

 

明月別枝驚鵲,         Minh nguyệt biệt chi kinh thước,

清風半夜鳴         Thanh phong bán dạ minh thiền.

稻花香裏説豐     Đạo hoa hương lý thuyết phong niên,

聽取蛙聲一         Thính thủ oa thanh nhất phiến.

 

七八個星天外,         Thất bát cá tinh thiên ngoại,

兩三點雨山         Lưỡng tam điểm vũ sơn tiền.

舊時茅店社林     Cựu thời mao điếm xã lâm biên,

路轉溪橋忽        Lộ chuyển khê kiều hốt kiến.

 

Chú Thích

1- Tây Giang Nguyệt 西江月: nguyên là bài hát của Đường giáo phường 唐教坊, sau dùng làm từ điệu. Tên khác là “Bạch tần hương 白蘋香”, “Bộ hư từ 步虛詞”, “Vãn hương thời hậu 晚香時候”, “Ngọc lô tam giản tuyết 玉爐三澗雪”, “Giang nguyệt lệnh 江月令”. Tây giang là tên khác của sông Trường giang 長江. Tên bài từ được lấy từ câu thơ của Lý Bạch 李白 trong bài “Tô đài giám cổ 蘇台覽古”:

 

只今唯有西江月,Chỉ kim duy hữu Tây giang nguyệt,

曾照吳王宮裏人。Tằng chiếu Ngô vương cung lý nhân”.

Chỉ nay có trăng trên Tây giang,

Đã từng chiếu cung nhân trong cung của Ngô vương”.

 

Điệu này có 50 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn 2 bình vận và 1 hoặc 2 diệp vận (cùng vận nhưng khác thanh). Cách luật:

 

X T X B X T cú

X B X T B B vận

X B X T T B B vận

X T X B X T diệp vận

 

X T X B X T cú

X B X T B B vận

X B X T T B B vận

X T X B X T diệp vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Hoàng Sa đạo 黃沙道: con đường nhỏ nối các làng mạc trong vùng núi Hoàng Sa lãnh 黃沙嶺ở Giang Tây江西, TH.

3- Thước : con chim thước còn gọi là hỉ thước vì người xưa tin tưởng tiếng kêu của nó mang điềm lành.

4- Minh nguyệt biệt chi kinh thước 明月別枝驚鵲: ánh trăng sáng làm kinh tỉnh con chim thước đang ngủ trên cành.

5- Biệt chi 別枝: cành nghiêng, cành đặc biệt, hay chỉ nói “trên cành”.

6- Minh thiền 鳴蟬: tiếng ve kêu. 

7- Đạo hoa 稻花: bông lúa.

8- Phong niên 豐年: năm được mùa.

9- Thinh thủ 聽取: nghe được, chữ thủ dùng làm trợ từ.

10- Oa thanh 蛙聲: tiếng ếch.

11- Thất bát cá tinh thiên ngoại, Lưỡng tam điểm vũ sơn tiền 七八個星天外, 兩三點雨山前: lấy ý từ câu thơ của Lô Diên Nhượng 盧延讓trong bài Tùng thi 松詩:

 

兩三條電欲為雨,Lưỡng tam điều điện dục vi vũ,

七八個星猶在天。Thất bát cá tinh do tại thiên.

Hai ba tia chớp trời muốn mưa,

Bẩy tám ngôi sao còn trên trời”.

 

12- Cựu thời 舊時: ngày xưa, ngày quá khứ.

13- Mao điếm 茅店: khách điếm có mái lợp bằng cỏ, tranh, lá.

14- Xã lâm 社林: rừng gần bên miếu thổ địa.

15- Kiều : cây cầu, bản khác chép “Đầu ”, khê đầu 溪頭 = thượng du của dòng suối.

16- Hốt kiến忽見: bất ngờ trông thấy, bất ngờ xuất hiện.

 

Dịch Nghĩa

Trong lúc đi đêm ở Hoàng Sa đạo.

Ánh trăng sáng làm kinh động chim thước ngủ trên cành,

Nửa đêm có gió mát nghe tiếng ve kêu.

Trong mùi thơm của bông lúa nói lên năm được mùa.

Nghe thấy một loạt tiếng ếch.

 

Ngoài trời xa có bẩy, tám ngôi sao,

Hai ba giọt mưa trước dẩy núi.

(Nhớ rằng) ngày xưa ở khu rừng cạnh miếu thổ địa, có ngôi khách điếm mái lợp tranh.

Vừa chuyển qua cây cầu bắc ngang suối chợt thấy (khách điếm).

 

Phỏng Dịch

1 Tây Giang Nguyệt - Cảnh Quê

 

Thước hoảng cành nghiêng trăng sáng,

Nửa đêm gió mát ve than.

Hương thơm bông lúa được mùa màng.

Tiếng ếch nghe vang một đám.

 

Bẩy tám ngôi sao trời ngoại,

Đầu non vài giọt mưa xuyên.

Ngày xưa nhà cỏ miếu rừng bên.

Đường rẽ suối cầu bỗng hiện.

 

2 Cảnh Quê

 

Trăng sáng cành nghiêng thước hoảng kinh,

Ve kêu gió mát giữa đêm thanh.

Hương thơm lúa chín được mùa mới,

Tiếng ếch nghe vang vọng ruộng xanh.

 

Phương trời xa tít những vì sao,

Tí tách giọt mưa trước núi cao.

Mái tranh khách điếm bên rừng cũ,

Đường chuyển hiện ngay qua suối cầu.

 

HHD 12-2021

 

 

 

 

 

 

  

Mô Ngư Nhi - Tân Khí Tật

摸魚兒 - 辛棄疾  Mô Ngư Nhi – Tân Khí Tật

淳熙己亥,自湖北漕移湖南,同官王正之置酒小山亭,為賦。

Thuần hy kỷ hợi, tự Hồ Bắc tào di Hồ Nam, đồng quan Vương Chánh Chi trí tửu Tiểu San đình, vi phú.

 

更能消、幾番風Cánh năng tiêu, kỷ phiên phong vũ,

匆匆春又歸         Thông thông xuân hựu quy khứ.

惜春長怕花開早,     Tích xuân trường phạ hoa khai tảo,

何況落紅無         Hà huống lạc hồng vô số.

春且                      Xuân thả trú,

見説道、天涯芳草無歸Kiến thuyết đạo, thiên nhai phương thảo vô quy lộ.

怨春不                 Oán xuân bất ngữ.

算只有殷勤,             Toán chỉ hữu ân cần,

畫檐蛛網,                 Họa Diêm thù võng,

盡日惹飛             Tận nhật nhạ phi nhứ.

 

長門事,                      Trường môn sự,

準擬佳期又         Chuẩn nghĩ giai kỳ hựu ngộ.

蛾眉曾有人         Nga mi tằng hữu nhân đố.

千金縱買相如賦,     Thiên kim túng mãi Tương Như phú,

脈脈此情誰         Mạch mạch thử tình thùy tố?

君莫                      Quân mạc vũ,

君不見、玉環飛燕皆塵Quân bất kiến, Ngọc hoàn phi yến giai trần thổ!

閒愁最                 Nhàn sầu tối khổ!

休去倚危欄,             Hưu khứ ỷ nguy lan,

斜陽正在,                 Tà dương chính tại,

煙柳斷腸             Yên liễu đoạn trường xứ.

 

Chú Thích

1- Mô ngư nhi 摸魚兒: tên từ bài, nguyên là 1 khúc hát của Đường giáo phường, sau dùng làm từ bài. Tên khác là “Mô ngư tử 摸魚子”, “Mãi bi đường 買陂塘”, “Mại bi đường 邁陂塘”, “Song cừ oán 雙蕖怨”, v.v. Bài này có 116 chữ, đoạn trước có 10 câu với 7 trắc vận, đoạn sau có 11 câu với 7 trắc vận. Cách luật:

 

T B B, X B B T cú

X B X T B T vận

X B X T B B T cú

X T X B B T vận

B T T vận

X T T, X B X T B B T vận

X B X T vận

T X T B B cú

X B X T cú

X T X B T vận

 

B B T cú

X T B B X T vận

X B X T B T vận

X B X T B B T cú

X T X B B T vận

B T T vận

X X T, X B X T B B T vận

X B X T vận

X X T B B cú

X B X T cú

X T T B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Thuần Hy 淳熙: niên hiệu của vua Tống Hiếu Tông宋孝宗.

3- Kỷ hợi 己亥: năm kỷ hợi 1179.

4- Tào  = tào ty 漕司 còn gọi là “Tào vận ty 漕運司”, chuyên lo về việc trưng thu thuế và xuất lương bổng. Trong bài này chữ “Tào” ám chỉ chuyển vận sứ 轉運使, quan chức cai quản tào ty.

5- Đồng quan 同官: người làm quan ngang hàng với mình. Tác giả nguyên làm Chuyển vận phó sứ ở tỉnh Hồ Bắc. Khi tác giả bị điều đi Hồ Nam 湖南thì người mới đến tiếp nhận chức này là Vương Chính Chi 王正之.

6- Tiêu : trải qua.

7- Thông thông匆匆: vôi vàng, nhanh chóng.

8- Phạ : sợ, bản khác chép “hận : ghét”.

9- Lạc hồng 落紅: hoa rụng.

10- Vô : không, bản khác chép mê.

11 Toán chỉ hữu ân cần, họa diêm chu võng, tận nhật nhạ phi nhứ 算只有殷勤, 畫檐蛛網, 盡日惹飛絮: tính ra chỉ có màng nhện dưới mái nhà hoa lệ còn ân cần quấn quít với tơ liễu bay trong gió, lưu giữ mầu xuân sắc.

12- Họa diêm畫檐: mái nhà có sơn phết vẽ hình.

13- Phi nhứ 飛絮: nhánh liễu lắc lư theo gió.

14- Trường môn 長門: tên một cung điện thời nhà Hán , nơi giam giữ bà Trần hoàng hậu 陳皇后khi bà bị vua Hán Võ đế 漢武帝 thất sủng.

15- Chuẩn nghĩ 準擬: liệu rằng, tính toán rằng, hy vọng rằng.

16- Nga mi 蛾眉: chỉ người thiếu nữ xinh đẹp.

17- Thiên kim千金: ngàn vàng. Tương truyền lúc Trần hoàng hậu bị giam ở Trường Môn cung, bà nhờ người đem vàng đến biếu Tư Mã Tương Như 司馬相如và nhờ làm một bài phú kể lể nỗi khổ của bà để mong được Hán Đế cảm động.  

17- Tương Như Phú 相如賦: tức là bài “Trường môn phú 長門賦” của Tư Mã Tương Như, nói về việc bà hoàng hậu Trần A Kiều 陳阿嬌bị thất sủng.

18- Túng : ví phỏng, dù cho.

19- Mạch mạch 脈脈: triền miên thâm sâu.

20- Quân 君: chỉ những người đố kỵ,

21- Ngọc Hoàn Phi yến 玉環飛燕: tức là quý phi Dương Ngọc Hoàn 楊玉環 và hoàng hậu Triệu Phi yến 趙飛燕.

22- Giai Trần Thổ 皆塵土: đều trở thành đất bụi, trích dẫn một đoạn trong “Triệu Phi Yến Ngoại Truyện 趙飛燕外傳”:

 

斯人俱灰滅矣, Tư nhân câu hôi diệt hỹ,

Người ấy (Chỉ chị em Triệu Phi Yến) đều bị hủy diệt cả”.

 

23- Nhàn sầu 閒愁: chỉ tinh thần sầu muộn.

24- Nguy lan 危欄: lan can trên lầu cao.

25- Đoạn trường 斷腸: đứt ruột, đau buồn hết sức.

 

Dịch Nghĩa

Năm Kỷ hợi niên hiệu Thuần Hy, từ Hồ Bắc làm Chuyển vận sứ, đổi đi Hồ Nam. Trong buổi đãi rượu của người đồng quan là Vương Chính Chi ở Tiểu Sơn đình, làm bài này.   

Còn qua được mấy phen mưa gió

Vội vã xuân lại ra đi,

Tiếc mùa xuân (tôi) sợ mãi hoa nở sớm.

Hà huống hoa rụng vô số.

Xuân hãy ở lại,

(Xuân không) nghe nói sao, cỏ thơm ngoài chân trời chắn mất lối về (của mùa xuân).

Oán xuân không nói.

Xem ra ân cần chỉ có,

Màng nhện dưới mái nhà hoa,

Suốt ngày (xuân) cùng tơ liễu bay.

 

Câu truyện (ở cung) Trường Môn (giam bà Trần hậu),

Liệu rằng hẹn ước lại bị lỡ làng.

Mỹ nhân từng bị người ganh ghét.

Nghìn vàng ví phỏng mua được bài phú của Tương Như,

Triền miên mối tình này biết nói với ai?

Người đừng múa,

Người chẳng thấy, Ngọc Hoàn, Phi Yến đều hoá thành tro bụi.

Tinh thần ưu uất thật là khổ.

Đừng lên lầu tựa lan can (ngắm cảnh),

Trong lúc mặt trời xế bóng,

(Nhìn) cây liễu phủ khói sương mà lòng buồn đứt ruột.

 

Phỏng Dịch

1 Mô Ngư NhiXuân Tàn Phai 

 

Lại đi qua, mấy phen mưa gió,

Nhanh nhanh xuân cũng từ bỏ.

Tiếc xuân nên sợ mùa hoa sớm,

Thêm nữa loạn hồng vô số.

Xuân hãy ở.

Thấy nói vậy, chân trời không lối về thơm cỏ.

Trách xuân chẳng lộ.

Nghĩ chỉ có ân cần,

Mái hoa màng nhện,

Suốt buổi liễu tơ rủ.

 

Trường môn sự.

Nghĩ đến giai kỳ đã lỡ.

Giai nhân từng bị ganh đố.

Ngàn vàng quyết đổi Tương Như phú.

Quấn quít mối tình ai tỏ.

Ngươi đừng múa.

Sao chẳng thấy, Ngọc Hoàn Phi Yến vùi trong mộ?

Sầu đời rất khổ.

Thôi đừng tựa lan can,

Tà dương đang chiếu,

Buồn liễu khói sương phủ.

 

2 Xuân Tàn Phai

 

Mưa gió mấy phen đã vượt qua,

Vội vàng xuân lại muốn lìa xa.

Tiếc xuân vẫn sợ mùa hoa sớm,

Vô số hồng bay trong ánh tà.

 

Hãy ngừng lại mùa xuân muôn thuở,

Chẳng lẽ không nghe người nhắn nhủ.

Phương thảo chân trời không lối về.

Trách xuân thầm lặng không ngôn ngữ.

 

Phải chăng chỉ có ân cần tình,

Mạng nhện nhà hoa khung cảnh xinh.

Lưu giữ mùa xuân bao diễm lệ,

Suốt ngày phơ phất liễu dương xanh.

 

Trường môn chốn cũ giam Trần hậu,

Ước nguyện giai kỳ sao vẫn lỡ.

Người đẹp xưa nay lắm kẻ ganh,

Ngàn vàng xin đổi Tương Như phú.

 

Tình này dằng dặc cùng ai ngỏ?

Đừng múa nữa người hay ghét bỏ.

Chẳng thấy sao Phi Yến Ngọc Hoàn,

Cuối cùng tan biến thành trần thổ.

 

Cuộc đời sầu khổ những tàn phai,

Chớ dựa lan can ngắm cảnh trời.

Chính tại tà dương lòng khắc khoải,

Liễu sương mờ phủ nát hồn người.

 

HHD 12-2021