謝池春慢 - 張先 Tạ Trì Xuân Mạn
- Trương Tiên
玉仙觀道中逢謝媚卿 Ngọc Tiên quan đạo trung phùng Tạ Mỵ Khanh
繚牆重院, Liễu
tường trùng viện,
時聞有、啼鶯到。 Thời văn hữu, đề oanh đáo
繡被掩餘寒, Tú bị
yểm dư hàn,
畫幕明新曉。 Họa mạc minh tân hiểu.
朱檻連空闊, Chu
hạm liên không khoát,
飛絮無多少。 Phi nhứ vô đa thiểu.
徑莎平, Kính
sa bình,
池水渺。 Trì thủy miểu.
日長風靜, Nhật
trường phong tĩnh,
花影閒相照。 Hoa ảnh nhàn tương chiếu.
塵香拂馬, Trần
hương phất mã,
逢謝女、城南道。 Phùng tạ nữ, thành nam đạo.
秀豔過施粉, Tú
diễm quá thi phấn,
多媚生輕笑。 Đa mỵ sinh khinh tiếu.
鬥色鮮衣薄, Đấu
sắc tiên y bạc,
碾玉雙蟬小。 Triển ngọc song thiền tiểu.
歡難偶, Hoan
nan ngẫu,
春過了。 Xuân quá liễu.
琵琶流怨, Tỳ
bà lưu oán,
都入相思調。 Đô nhập tương tư điệu.
Chú Thích
1 Tạ trì xuân mạn謝池春慢: tên từ bài, gồm 90 chữ, đoạn trước và đoạn sau đều có
10 câu và 5 trắc vận. Cách luật:
X B B T cú
B X T, B B T vận
X T T B B cú
X T B B T vận
X T B B T cú
B T B B T vận
T B B cú
B T T vận
T B B T cú
B T B B T vân
B B T T cú
B T T, B B T vận
T T X B X cú
X T B B T vận
T T B B T cú
X T B B T vận
B X T cú
B T T vận
X B X T cú
B T B B T vận
2 Ngọc Tiên quan玉仙觀: ở phía nam thành Biện Kinh, là một thắng cảnh du xuân
thời bấy giờ.
3 Tạ Mỵ Khanh謝媚卿: tên một kỹ nữ danh tiếng thời Bắc Tống.
4 Liễu tường trùng viện 缭墙重院: tường vòng vo bao quanh nhà lớn kín cổng. Nhà kín cổng
cao tường.
5 Đề oanh啼鶯: tiếng chim oanh hót.
6 Tú bị繡被: chăn thêu (để đắp khi ngủ).
7 Yểm掩:
che, đậy.
8 Họa mạc畫幕: màn hoa, màn cửa hoa mỹ.
9 Tân hiểu新曉: ngày mới.
10 Chu hạm朱檻: lan can sơn son, kiến trúc hoa mỹ.
11 Liên không連空: liền với khoảng trời không bao la.
12 Phi nhứ 飛絮: cành liễu nhỏ nhắn như tơ phất phơ bay trong gió.
13 Vô đa thiểu 無多少: trong bài này có thể hiểu là “Bất kế đa thiểu 不計多少: không kể được là bao nhiêu”.
14 Sa (toa) 莎: Một loại cỏ. Kính sa bình 徑莎平:
con đường đầy cỏ sa mọc cao đều nhau như bằng phẳng.
15 Miểu (diểu) 渺: xa tít mù.
16 Trần hương 塵香: bụi bặm và hương thơm của hoa cỏ.
17 Phất mã 拂馬= phất dã
mã 拂野馬. Chữ dã mã 野馬có nguồn gốc từ sách
Trang Tử庄子, chương Tiêu Dao Du逍遥游:
“Dã mã dã, Trần ai dã 野馬也,塵埃也: ngựa hoang vậy,
bụi bặm vậy”. Dã mã được giải thích là hơi mây hơi sương bốc lên thành hình con
ngựa hoang. Phất mã có nghĩa là hơi mây sương bốc lên thổi vào hay mơn man vào
mặt, vào người.
18 Trần hương phất mã 塵香拂馬: câu này có ý nói khi đến Ngọc Sơn quan thì bụi bặm,
bụi sương và mùi thơm của hoa cỏ thổi vào mặt.
19 Tạ nữ: Tạ Mỵ Khanh 谢媚卿, tên một kỹ nữ danh tiếng thời ấy.
20 Thi phấn施粉: dồi phấn, thoa phấn.
21 Đa mỵ (mị) 多媚 = đa vũ mỵ 多嫵媚: tư thái rất yêu kiều khả ái.
22 Đấu sắc鬥色= đấu sắc 鬪色: khoe sắc.
23 Y bạc衣薄: áo mỏng, áo đơn sơ.
24 Triển (niển, niễn) 碾: Chạm trổ, mài giũa.
25 Song thiền 雙蟬: đồ trang sức có hình 2 con ve sầu châu đầu vào nhau.
26 Triển ngọc song thiền 碾玉雙蟬: mài giũa ngọc thành hình 2 con ve sầu để làm đồ
trang sức.
27 Nan ngẫu難偶: khó thành đôi nam nữ bạn tình. Hoan nan ngẫu歡難偶: có ý nói cơ hội vui đã mất khó lòng tái kết hợp.
28 Xuân quá liễu春過了: mùa xuân đã qua rồi, ý nói tác giả và Tạ nương không
còn cơ hội tái kết hợp.
29 Lưu 流: trôi ra, chẩy ra, phát ra, truyền ra. Tỳ bà lưu oán 琵琶流怨: đàn tỳ bà truyền ra những (âm thanh) ai oán.
30 Tương tư 相思: tưởng nhớ, tưởng nhớ lẫn nhau. Tương tư điệu 相思調: điệu nhạc, điệu hát tưởng nhớ.
Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu tạ trì xuân
mạn của Trương Tiên.
Ghi chú của tác giả: Trên đường
đi ở Ngọc Tiên Quan, gặp Tạ Mỵ Khanh.
(Có người nói Trương Tiên làm
bài này tặng cho Tạ Mỵ Khanh)
Tường cao vây nhiễu nhà viện sâu
trùng trùng,
Có lúc nghe thấy tiếng chim
oanh hót đưa đến.
Chăn thêu chống chỏi cái lạnh
còn dư lại,
Ánh sáng của ngày mới hiện trên
tấm màn cửa hoa lệ.
Lan can mầu son đỏ liền với
khung trời bát ngát,
Những dây tơ liễu bay vô số.
Đường mòn mọc cỏ sa bằng phẳng,
Ánh nước ao ở xa xa.
Ngày dài (dần trôi), gió đã lặng
yên,
Ảnh của chùm hoa (trên mặt nước)
và chùm hoa tương chiếu nhau 1 cách nhàn hạ.
Bụi sương mang mùi thơm hoa cỏ
ập đến mơn man,
Trên con đường phiá nam thành,
gặp cô gái họ Tạ (kỹ nữ Tạ Mỵ Khanh).
(Gương mặt) xinh đẹp tú diễm
hơn cả đánh phấn,
Nở nụ cười nhẹ nhàng rất yêu
kiều khả ái.
(Mặc) cái áo mỏng mầu sắc tươi
đẹp,
Đeo ngọc trang sức nhỏ hình 2
con ve sầu.
(Gặp nhau đã muộn màng) cơ hội
vui đã mất khó kết hợp thành đôi được.
Mùa xuân (của tôi và cô) đã
qua mất rồi.
Đàn tỳ bà truyền ra những âm
thanh ai oán,
Đều hòa nhập vào điệu nhạc
(hoặc điệu hát) tương tư.
Phỏng Dịch
Gặp Người Ca nữ
Trùng viện sâu sâu tường nhiễu
quanh,
Thoảng nghe vọng lại tiếng hoàng
oanh.
Chăn thêu chống chỏi cơn lạnh
giá,
Màn ánh chiêu dương ngày đến
nhanh.
Lan can đỏ thắm liền trời không,
Nhánh liễu gió đưa những chập
chùng.
Thảm cỏ đường mòn xanh phẳng
lặng,
Ao xa lấp lánh nước mông lung.
Chậm chạp ngày dài lờ lững trôi,
Gió xuân yên tĩnh lặng mây trời.
Cành hoa soi bóng bên bờ nước,
Hoa ảnh, ảnh hoa chiếu tuyệt
vời.
Hương thơm sương bụi chợt mơn
man,
Đường nhỏ thành nam gặp gỡ nàng.
Kiều diễm nét hoa hơn phấn sáp,
Nhẹ cười quyến rũ vẻ dung
nhan.
Khoe sắc tươi mầu áo mỏng
manh,
Cánh ve sầu nhỏ ngọc long
lanh.
Gặp nhau, hoan tiếu thời vừa
lỡ,
Bóng dáng xuân qua đã hết tình.
Thanh điệu tỳ bà tiếng nhặt
khoan,
Dây tơ dìu dặt lời than van.
Hòa với tương tư ai oán điệu,
Chỉ còn lưu luyến chút duyên
tàn.
HHD 6-2020
Bản Dịch của Lộc Bắc
Tạ trì xuân mạn
1-
Tường quanh dinh thự
Thoảng nghe tiếng oanh rộn rạo
Chăn hoa chống lạnh thừa
Ngày mới rọi màn nhiễu
Rào đỏ liền trời rộng
Bay tràn đầy bông liễu
Đường cỏ mòn
Ao nước ảo
Ngày dài gió lặng
Hoa, ảnh cùng nhàn chiếu
Bụi hương mặt quyện
Gặp cô Tạ, nam thành dạo
Mặt đẹp hơn dồi phấn
Thư thái nhẹ cười hiểu
Áo mỏng tươi màu sắc
Đeo ngọc ve sầu kiểu
Vui khó kết
Xuân đã kiếu
Tỳ bà ai oán
Đều nhập tương tư điệu
2-
Tường quanh bao dinh thự
Thoảng nghe tiếng oanh về
Chăn hoa cản rét tê
Ngày mới soi màn nhiễu
Rào đỏ nối trời không
Bông liễu bay tràn đồng
Đường cỏ mòn uốn khúc
Ao nước xa mênh mông
Ngày dài giông gió lặng
Hoa, ảnh chiếu an nhàn
Bụi sương thơm miên man
Thành nam gặp cô Tạ
Mặt mộc hơn phấn dồi
Thư thái nhoẻn môi cười
Áo mỏng tươi màu sắc
Đeo ngọc ve sầu đôi
Niềm sống chung khó liệu
Xuân thời đà kết liễu
Ai oán giọng tỳ bà
Đều nhập tương tư điệu
Lộc Bắc
Jul20
0 comments:
Post a Comment