Saigon

Autumn

Sakura B

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Tulip

Osaka

Sakura

Thursday, December 25, 2025

Tề Thiên Nhạc - Vương Nghi Tôn

齊天樂 - 王沂孫  Tề Thiên Nhạc – Vương Nghi Tôn

Thiền

一襟餘恨宮魂斷,     Nhất khâm dư hận cung hồn đoạn,

年年翠陰庭         Niên niên thúy âm đình thụ.

乍咽涼柯,                 Sạ yết lương kha,

還移暗葉,                 Hoàn di ám diệp,

重把離愁深         Trùng bả ly sầu thâm tố,

西窗過                 Tây song quá vũ.

怪瑤佩流空,             Quái dao bội lưu không,

玉箏調                 Ngọc tranh điều trụ.

鏡暗妝殘,                 Kính ám trang tàn,

為誰嬌鬢尚如     Vi thùy kiều mấn thượng như hứa.

 

銅仙鉛淚似洗,         Đồng tiên diên lệ tự tẩy,

嘆攜盤去遠,             Thán huề bàn khứ viễn,

難貯零                 Nan trữ linh lộ.

病翼驚秋,                 Bệnh dực kinh thu,

枯形閲世,                 Khô hình duyệt thế,

消得斜陽幾         Tiêu đắc tà dương kỷ độ?

餘音更                 Dư âm cánh khổ.

甚獨抱清商,             Thậm độc bão thanh thương,

頓成悽                 Đốn thành thê sở?

想薰風,                 Mạn tưởng huân phong,

柳絲千萬             Liễu ty thiên vạn lũ.

 

Chú Thích

1- Tề thiên nhạc 齊天樂: tên từ bài, tên khác là “Thánh thọ tề thiên nhạc mạn聖壽齊天樂慢”, “Đài thành lộ 臺城路”, “Ngũ phúc giáng trung thiên 五福降中天”, “Như thử giang sơn如此江山”. Bài này có 102 chữ, đoạn trước 10 câu, đoạn sau 11 câu. Cách luật: 

 

X B X T B B T cú

B X T B X T vận

X T B B cú

X B X T cú

X T X B X T vận

X B X T vận

T X T B B cú

X B B T vận

X T B B cú

X B X T T B T vận

 

X  B  X  T  X  T cú

T  B  B  T  T cú

X  X  B  T vận

X T B B cú

X B X T cú

X T B B X T vận

X B X T vận

T X X B B cú

T B B T vận

X T B B cú

T B B T T vận

 

2- Thiền : ve sầu

3- Nhất khâm 一襟: tràn ngập tấc lòng.

4- Cung hồn 宮魂: tức là hồn của Tề hoàng hậu. Sách “Cổ kim Chú 古今注” quyển hạ của Thôi Báo 崔豹 đời Tấn 晉 chép rằng:

 “Ngưu Hanh vấn viết: ‘Thiền danh Tề nữ giả, hà dã?’ Đáp viết: ‘Tề vương hậu phẫn nhi tử, thi biến vi thiền, đăng đình thụ, huệ lệ nhi minh, Vương hối hận. Cố thế danh thiền viết Tề nữ dã’牛亨問曰: ‘蟬名齊女者,何也?’答曰: ‘齊王后忿而死,尸變爲蟬,登庭樹,嘒唳而鳴,王悔恨。故世名蟬曰齊女也。”  (Ông Ngưu Hanh hỏi rằng: “Ve sầu được gọi là Tề nữ, là sao vậy?” Đáp rằng: “Tề vương hậu phẫn uất mà chết, thây biến thành ve sầu, bay lên cây trong sân, rơi lệ mà kêu, vua hối hận, Vì thế gọi ve sầu là Tề Nữ vậy”).

Đoạn trên không nói vì sao mà Tề vương hậu phẫn uất nhưng điển tích này thường trên thi từ đàn xuất hiện. Ví dụ như Lý Thương Ẩn 李商隱 trong bài Hàn Hoành Xá Nhân tức sự 韓翃舍人即事 (Truyện kể về quan Trung Thư Xá Nhân 中書舍人 Hàn Hoành) có thơ rằng:

 

鳥應悲蜀帝,Điểu ưng bi Thục đế, Chim (cuốc) là buồn Thục đế,

蟬是怨齊王。Thiền thị oán Tề vương. Ve sầu thì oán Tề vương.

 

5- Thúy âm 翠陰 = lục âm 綠蔭: lùm lá cây xanh.

6- Yết : nức nở.

7- Lương kha 涼柯:cành cây trong mùa thu.

8- Ám diệp 暗葉: lá cây um tùm, u ám.

9- Ly sầu 離愁: nỗi sầu vì ly biệt.

10- Tây song 西窗: cửa sổ phía tây. Lấy chữ từ bài thơ “Dạ vũ ký bắc 夜雨寄北” của Lý Thương Ẩn 李商隐:

 

何當共剪西窗燭,Hà đương cộng tiễn tây song chúc,

卻話巴山夜雨時。Khước thoại Ba sơn dạ vũ thì.

Khi nào chúng lại cùng cắt (bấc) nến ở tây song,

Rồi lại nói chuyện lúc đêm mưa ở Ba sơn.

 

Vốn là để nói lúc lữ hành nhớ vợ con ở quê nhà. Về sau cũng dùng để chỉ bạn bè hội tụ nói chuyện lúc đêm khuya. Trong bài này chữ “Tây song” phiếm chỉ cửa sổ.

11- Quái = quái lạ. Dao bội 瑤佩 = dao bội thanh 瑤佩聲: (Tiếng ve sầu nghe như) tiếng ngọc chạm vào nhau.

12- Ngọc tranh 玉箏: cây đàn tranh quý báu.

13- Điều 調: điều chỉnh cái trụ để căng dây đàn tranh. Ngọc tranh điều trụ 玉箏調柱: điều chỉnh các trụ căng dây trên cây đàn tranh. Câu này ám chỉ tiếng ve kêu réo rắc như tiếng đàn tranh. 

14- Kính ám trang tàn 鏡暗妝殘:gương mờ, trang sức tàn nhạt. Câu này và câu dưới có ý nói không trang điểm mà vì sao bộ tóc đẹp như thế.  Cung nhân Mạc Quỳnh Thụ 莫瓊樹 của Ngụy Văn Đế Tào Phi 魏文帝曹丕 sáng chế kiểu búi tóc hình cánh ve sầu gọi là “Thiền mấn 蟬鬢”, lan truyền trong giới cung nhân và dân gian thời bấy giờ.

15- Vi thùy 為誰: vì đâu. Kiều mấn 嬌鬢: mái tóc đẹp, chỉ cánh ve đẹp mỹ lệ.

16- Thượng như hứa 尚如許: còn như thế! 

17- Đồng tiên  = Kim đồng tiên nhân  金銅仙人  hay Kim đồng tiên nhân thừa lộ bàn 金銅仙人承露盤. Sách Hán Thư 漢書 chép rằng: vua Hán Võ Đế 漢武帝 cho đúc 2 pho tượng hình người tiên bằng đồng ở trước Bách Lương Đài 柏梁台 và Kiến Chương Cung 建章宫, trên tay pho tượng bưng một cái mâm cũng bằng đồng để hứng sương trời. Sương hứng được sẽ trộn với ngọc tán nhỏ, làm thành nước uống để tăng tuổi thọ. Pho tượng dựng trước Bách Lương Đài bị phá hủy do hỏa hoạn vào năm 104 trước Tây Lịch.  

18- Diên lệ 鉛淚: giọt nước mắt (của pho trượng đồng long lanh) như giọt chì hóa lỏng, lấy chữ từ bài “Kim đồng tiên nhân từ Hán ca 金銅仙人辭漢歌” của Lý Hạ 李賀 đời Đường:

空將月出宮門,Không tương Hán nguyệt xuất cung môn,

憶君清淚如鉛水。Ức quân thanh lệ như diên thủy.

Chỉ cùng vầng trăng thời triều Hán đi ra khỏi cửa cung,

(Tượng đồng) nhớ quân vương, rơi lệ trong như giọt chì hóa lỏng.

 

     Trong thời Tam Quốc 三國, vua Ngụy Minh Đế Tào Duệ 魏明帝曹叡 cũng muốn luyện thuốc trường sinh bèn sai người di dời pho tượng đồng ở Kiến Chương Cung từ Trường An 長安 (kinh đô nhà Hán) về Lạc Dương 洛陽 (kinh đô nước Ngụy). Với phương tiện thời bấy giờ thì pho tượng này nặng quá, không đem nổi, đàng phải bỏ lại ở Bá Thành 霸城 (tức Bá Lăng huyện 霸陵) gần thị trấn Tây An 西安市, Trung Quốc.

19- Huề bàn khứ viễn 攜盤去遠: đem mâm đi xa. Bàn  = thừa lộ bàn 承露盤tức là mâm hứng sương trên tay tượng đồng của Hán Võ Đế. Theo truyền thuyết dân gian thì loài ve sầu chỉ ăn những giọt sương mà sống. Tác giả đem ghép việc pho tượng hứng sương của Hán Cung bị di dời đi, không còn hứng sương nữa, với lúc tàn lụi của mùa ve sầu để giúp cho bài từ thêm thú vị.

20- Linh lộ 零露: Giọt sương rơi xuống tự nhiên. Lấy chữ từ Kinh Thi, Phẩm Trịnh Phong, bài Dã Hữu Mạn Thảo “詩經·鄭風·野有蔓草”:  

野有蔓草,零露漙兮。 dã hữu mạn thảo linh lộ đoàn hề.  

Bãi hoang dã có cỏ mọc tràn, giọt sương rơi xuống nhiều chừ.

 

21- Bệnh Dực kinh thu 病翼驚秋: cánh ve sầu bệnh suy tàn, sợ mùa thu.

22- Khô hình 枯形: thân hình khô héo.

23- Tiêu đắc 消得:chịu đựng được (bao lâu).

24- Tà dương 斜陽: ánh nắng buổi chiều.

25- Thanh thương 清商 = thanh thương khúc 清商曲: loại nhạc phủ cổ xưa, âm điệu buồn bã, chỉ tiếng kêu của ve sầu.

26- Thậm = sao, vì sao.

27- Đốn  = đốn thời 頓時: tức thời, bỗng nhiên.

28- Mạn tưởng  = mạn tưởng : không tưởng 空想, tưởng đến cũng vô ích; Mạn  = mạn  = đồ nhiên 徒然: uổng phí, in vain.

29- Huân phong 薰風: gió nồm, gió nam ấm áp, chỉ mùa hè.

 

Dịch Nghĩa

Ve sầu.

Hận lòng tràn ngập, cung phi hồn đoạn (hoá thành ve sầu),

Hằng năm đều tại lùm cây xanh trong sân kêu lên buồn bã.

Vừa tại cành cây mát nức nở,

Đã dời đến chùm lá u ám,

Lại đem chuyện ly biệt sầu khổ thố lộ.

Ngoài tây song mưa vừa tạnh.

Quái lạ, (tiếng ve sầu nghe như) tiếng ngọc đụng chạm nhau lưu truyền trên không trung.

(Tiếng ve sầu kêu nghe như) tiếng đàn tranh (réo rắc).

Kính đã mờ, dung mạo đã tiều tụy,

(Nhưng) vì đâu cánh ve sầu còn đẹp như vậy?

 

Tượng người tiên bằng đồng (khi đi khỏi Hán cung) rơi lệ long lanh như tắm,

(Đáng) than là (tượng) đem cái mâm đi xa,

Không còn chứa sương rơi nữa.

Đôi cánh bệnh hoạn sợ mùa thu.

Thân hình khô héo đã trải cuộc đời,

(Ve) còn chịu đựng được mấy độ hoàng hôn?

Tiếng kêu càng tỏ ra bi khổ.

Vì sao tự mình kêu lên những tiếng ai oán,

(Để) bỗng nhiên thành thê lương khổ sở?

Mơ tưởng vô bổ đến mùa gió ấm (khi xưa),

(Có) tơ liễu (bay) ngàn vạn cành.

 

Phỏng Dịch

1 Tề Thiên Nhạc – Ve Sầu

 

Ngập lòng thừa hận cung phi táng,

Năm năm góc vườn cổ thụ.

Chợt khóc cành thu,

Lại kêu lá ám,

Cùng với ly sầu minh tỏ.

Mưa tàn cửa sổ.

Lạ tiếng ngọc trên không,

Ngọc tranh căng trụ.

Tàn áo mờ gương,

Vì đâu đôi cánh đẹp như cũ?

 

Tiên đồng rơi lệ như tắm,

Thán đem mâm viễn xứ,

Khó chứa sương lộ.

Cánh bệnh sợ thu,

Thân khô trải thế,

Còn ngắm tà dương mấy độ?

Dư âm càng khổ.

Thảm thiết một mình sao?

Chợt thành thê sở.

Gió ấm mơ chi,

Vạn ngàn tơ liễu rủ.

 

2 Ve Sầu

Khi xưa oán hận trên đời,

Cung nhân oan thác chưa nguôi tâm tình.

Ve sầu ngưng tụ tinh anh,

Năm năm tìm đến bóng xanh sân vườn.

 

Chợt kêu nức nở cành lương,

Quay về lá ám khóc thương ly sầu.

Tây song mưa tạnh chưa lâu,

Lạ thay tiếng ngọc chuyển bầu không gian.

 

Tiếng nghe rền rĩ cung đàn,

Gương loan mờ ám điểm trang nhạt nhòa.

Vì đâu mãi vẫn mượt mà,

Cánh ve búi tóc cung nga tạo hình.

 

Tiên đồng tắm lệ long lanh,

Than vì mâm hứng sương linh xa vời.

Cánh tàn thu đến chơi vơi,

Thân khô trải thế, cuộc đời còn bao?

 

Dư âm càng khổ, vì đâu,

Tự mình mang nỗi oán sầu xướng ca.

Gió nồm mơ đến hè qua,

Vạn ngàn tơ liễu lòa xòa trời không.

 

HHD 12-2025  

 

 

  

Sunday, June 15, 2025

Thụy Hạc Tiên - Lục Tùng

瑞鶴仙 - 陸淞  Thụy Hạc Tiên - Lục Tùng

 

臉霞紅印             Kiểm hà hồng ấn chẩm,

睡覺來、冠兒還是不Thụy giác lai, quan nhi hoàn thị bất chỉnh.

屏間麝煤             Bình gian xạ môi lãnh,

但眉峯壓翠,             Đãn mi phong áp thúy,

淚珠彈                 Lệ châu đàn phấn.

堂深晝                 Đường thâm trú vĩnh,

燕交飛、風簾露Yến giao phi, phong liêm lộ tỉnh.

恨無人,                      Hận vô nhân,

說與相思,                 Thuyết dữ tương tư,

近日帶圍寬         Cận nhật đái vi khoan tận.

 

                          Trùng tỉnh,

殘燈朱幌,                 Tàn đăng chu hoảng,

淡月紗窗,                 Đạm nguyệt sa song,

那時風                 Na thời phong cảnh.

陽臺路                 Dương đài lộ quýnh,

雲雨夢,                      Vân vũ mộng,

便無                      Tiện vô chuẩn.

待歸來,                      Đãi quy lai,

先指花梢教看,         Tiên chỉ hoa tiêu giao khán,

欲把心期細         Dục bả tâm kỳ tế vấn.

問因循、過了青春,Vấn nhân tuần, quá liễu thanh xuân,

怎生意                 Chẩm sinh ý ổn.

 

Chú Thích

1- Thụy hạc tiên 瑞鶴仙: tên từ bài, tên khác là “Nhất niệm hồng 一捻紅”, “Hạc hạc tiên 鶴鶴仙”, gồm 102 chữ, trắc vận. Cách luật của Lục Tùng:

 

T B B T T vận

T T B, B B B T T T vận

B B T B T vận

T B B T T,

T B B T vận

B B T T vận

T B B, B B T T vận

T B B,

T T B B,

T T T B B T vận

 

B T vận

B B B T,

T T B B,

B B B T vận

B B T T vận

B T T,

T B T vận

T B B,

B T B B B T,

T T B B T T vận

T B B, T T B B,

T B T T vận

 

B: thanh bằng; T: thanh trắc; vận: vần.

 

2- Kiểm hà 臉霞: vẻ mặt hồng hào.

3- Giác : tỉnh lại.

4- Quan nhi 冠兒 = y quan 衣冠: mũ áo, mũ và y phục, thường dùng cho con nhà danh môn thế tộc.

5- Xạ môi 麝煤: chất than có pha mùi thơm xạ hương dùng để chế mực tầu. Trong bài này chữ “xạ môi” chỉ bức tranh thủy mặc.

6- Mi phong 眉峯: chân mày.

7- Áp thúy 壓翠: cau mày, nhíu mày.

8- Đàn : nước mắt tuôn ra.

9- Trú vĩnh 晝永: ngày dài đăng đẳng.

10- Giao phi 交飛: chim bay sát với nhau.

11- Phong liêm 風簾: màn cửa ngăn gió. Lộ tỉnh 露井: giếng mở, không có nắp đậy.

12- Thuyết dữ 說與: thố lộ với ai, nói với ai.

13- Đái vi khoan tận 帶圍寬盡: vòng dây thắt lưng thật lỏng lẻo, chỉ thân thể hao gầy.

14- Tỉnh : xem xét, kiểm điểm.

15- Chu hoảng 朱幌: màn mầu hồng mắc trên giường nằm.

16- Sa song 紗窗: cửa sổ giăng màn lụa mỏng.

17- Phong cảnh 風景 = tình cảnh 情景.

18- Dương đài 陽臺: nơi vua Sở Tương Vương 楚襄王 mộng thấy thần nữ trong bài “Cao đường phú 高唐賦” của Tống Ngọc 宋玉 đời Chiến quốc. Trong bài này chữ Dương đài lộ quýnh 陽臺路迥 có ý nói người tình ở nơi xa xôi.

19- Quýnh (còn đọc là huýnh) : xa xôi.

20- Vân vũ mộng 雲雨夢: giấc mộng mây mưa, ám chỉ nam nữ vui vầy hoan lạc.

21- Vô chuẩn 無準: không chuẩn xác.

22- Hoa tiêu (sao) 花梢: ngọn cành hoa, cũng ám chỉ nhan sắc tươi đẹp.

23- Giao : để cho.

24- Tâm kỳ 心期: kỳ vọng của nội tâm.

25- Nhân tuần 因循: tùy tiện, dễ dàng.

26- Ý ổn 意穩: an tâm.

 

Dịch Nghĩa

(Bài này Lục Tùng làm để tặng người ái cơ là ca nữ Ban Ban盼盼)

Gương mặt hồng còn in vết của cái gối,

Vừa tỉnh ngủ, y phục đầu tóc vẫn chưa chỉnh lại.

Trên tấm bình phong, bức tranh thủy mặc trông vẻ lạnh lẽo,

Chỉ thấy mỹ nhân nhíu mày (không vui),

Giọt nước mắt lăn trên má phấn.

Trong thâm khuê, ngày dài đăng đẳng buồn tẻ,

Nhìn qua màn cửa che gió, nơi mặt giếng, thấy đôi chim yến sát cánh nhau bay.

Hận rằng không có ai,

Để thố lộ nỗi lòng tương tư,

Gần đây thân hình tiều tụy, vòng dây thắt lưng đã lỏng ra hết sức.

 

Một lần nữa, xem xét chuyện xưa,

(Ngày ấy) khi ánh đèn tàn ánh chiếu hồng lên tấm màn,

Ánh trăng nhạt chiếu xuyên qua màn lụa che cửa sổ,

Lúc đó tình cảnh (mỹ hảo).

(Bây giờ) người tình ở nơi xa xôi,

Giấc mộng hạnh phúc,

Cũng không định chuẩn (bao giờ mới có lại).

Đợi khi tình lang về,

Trước tiên sẽ chỉ nhánh hoa cho anh ta xem,

Rồi đem những kỳ vọng trong tim ra hỏi cho rõ.

Hỏi anh ta sao lại tùy tiện đam ngộ tuổi thanh xuân,

Như thế an tâm được sao?

 

Phỏng Dịch

 

1 Thụy Hạc Tiên – Khuê Oán

 

Má hồng in gối ấn,

Mới tỉnh xong, y quan chưa mấy chỉnh chấn.

Bình phong bức tranh lạnh. 

Chỉ làn mi thúy nhíu,

Giọt châu má phấn.

Ngày dài cảnh lắng.

Én song phi, màn sương giếng lộng.

Hận không người,

Thố lộ tương tư,

Mới thấy áo quần khoan rộng.

 

Trầm lặng.

Đèn tàn màn đỏ,

Trăng nhạt bên song,

Thời xưa phong cảnh.

Người tình xa vắng.

Đoàn tụ mộng,

Không chắc chắn.

Đợi về đây,

Trước chỉ cành hoa cho thấy,

Sẽ đem tâm tình chất vấn.

Hỏi dễ dàng, phá nát thanh xuân,

Tấc lòng yên ổn? 

 

2 Khuê Oán

 

Má hồng in gối dấu vân,

Tỉnh ra đầu tóc áo quần lôi thôi.

Bình phong thủy mặc rã rời,

Lạnh lùng làn thúy không vui nhíu mày.

 

Giọt châu má phấn tuôn đầy,

Thâm khuê đăng đẳng ngày dài buồn tênh.

Nhìn xem thành giếng chênh vênh,

Qua màn chim yến bay thành một đôi.

 

Hận rằng quanh quẩn không người,

Tương tư thố lộ cho vơi muộn phiền.

Ngày gần tiều tụy vóc tiên,

Tái hồi kiểm điểm nỗi niềm lúc xưa.

 

Đèn tàn chiếu đỏ màn tơ,

Sa song ánh nguyệt dịu mờ chung soi.

Cảnh tình lúc ấy đẹp đôi,

Ngày nay chàng đã chân trời cách xa.

 

Giấc mơ hạnh phúc mặn mà,

Phụng loan chăn gối rồi ra thế nào?

Đợi chàng về sẽ hỏi sau,

Trước tiên chỉ nhánh hoa đào cho xem.

 

Tâm tình kỳ vọng hỏi thêm,

Dễ dàng cất bước êm đềm ra đi.

Thâm khuê tàn tạ xuân thì,

Lương tâm có thấy chút gì ăn năn?

 

HHD 01-2023

  

Tuesday, June 3, 2025

Giá Cô Thiên - Tân Khí Tật

鷓鴣天 - 辛棄疾  Giá Cô Thiên – Tân Khí Tật 34

 

欲上高樓去愁,     Dục thướng cao lâu khứ tịch sầu,

愁還隨我上高樓。     Sầu hoàn tùy ngã thướng cao lâu.

經行幾處江山改,     Kinh hành kỷ xứ giang sơn cải,

多少親朋盡白頭。     Đa thiểu thân bằng tận bạch đầu.

 

歸休去,                      Quy hưu khứ,

去歸休。                      Khứ quy hưu.

不成人總要封侯     Bất thành nhân tổng yếu phong hầu?

浮雲出處元無定     Phù vân xuất xử nguyên vô định,

得似浮雲也自由。     Đắc tự phù vân dã tự do.

 

Chú Thích

1- Giá (chá) cô thiên 鷓鴣天: tên từ bài, tên khác là Tư giai khách 思佳客, gồm 55 chữ, mỗi đoạn có 3 bình vận. Cách luật:

 

X X X X X X B vận

X B X T T B B vận

X B X T X B T cú

X T B B X T B vận

   

X X T cú

X B B vận

X B X T T B B vận

X B X T B B T cú

X T B B X T B vận

 

2- Tỵ (tịch) : trốn, tránh.

3- Kinh hành 經行: trải qua.

4- Kỷ xứ 幾處: mấy phen.

5- Bạch đầu 白頭: tóc đã bạc trắng.

6- Quy hưu khứ 歸休去: về hưu thôi. Chữ khứ  dùng làm trợ từ.

7- Bất thành 不成 = nan đạo  hoặc = mạc phi 莫非: chẳng lẽ.

8- Tổng yếu 總要: chỉ muốn.

9- Phong hầu 封侯: được phong quan tước.

10- Phù vân 浮雲: mây, mây nổi

11- Xuất xử 出處: đi và ở. Cũng có nghĩa là ra làm quan hoặc về quy ẩn.

12- Nguyên  = nguyên : nguồn gốc.

13- Vô định 無定: không có chỗ cố định.

14- Đắc tự 得似: được như, thật là; khẩu ngữ của người thời Tống.

 

Dịch Nghĩa

Muốn lên lầu cao để trốn tránh cái sầu,

Cái sầu còn theo tôi lên lầu cao.

Trải qua vài lần giang sơn biến đổi,

Bao nhiêu bạn thân đã bạc đầu hết.

 

Về hưu thôi,

Hãy về hưu.

Chẳng lẽ mọi người đều muốn được phong hầu sao?

Đi và ở của mây nổi vốn vô định,

Được như mây nổi cũng tự do.

 

Phỏng Dịch

 

1 Giá Cô Thiên - Tự Do

 

Muốn bước lầu cao tránh nỗi sầu,

Sầu còn theo mãi đến cao lâu.

Trải qua mấy bận giang sơn đổi,

Lắm bạn quen thân đã bạc đầu.

 

Về hưu nhé,

Hãy về hưu.

Lẽ nào người chỉ muốn phong hầu?

Phù vân qua lại nguyên vô định,

Được giống phù vân cũng tự do

 

2 Tự Do

 

Trốn sầu muốn bước lên lầu,

Sầu còn theo đến cao lâu muộn phiền.

Giang sơn biến đổi mấy phen,

Hoa râm tóc bạc thân quen bạn già.

 

Về hưu thôi nhé bọn ta,

Lẽ nào người chỉ bôn ba phong hầu.

Phù vân trôi nổi về đâu,

Được như mây nổi một bầu tự do.

 

HHD 12-2024

 

  

Sunday, March 23, 2025

Bạc Hãnh - Lữ Vị Lão

Lữ Vị Lão 呂渭老, còn gọi là Lữ Tân Lão 呂濱老, tên chữ là Thánh Cầu 聖求, người thị trấn Gia Hưng 嘉興, tỉnh Chiết Giang 浙江, TH. Ông tuy có tài làm thơ nhưng chỉ làm chức quan nhỏ trong triều dưới thời vua Tống Huy Tông 宋徽宗 cho đến biến cố Tĩnh Khang 靖康 (quân Kim 金 chiếm kinh đô nhà Tống ). Không ai rõ tình trang của ông ra sao dưới thời Nam Tống 南宋. Ông còn để lại 1 quyển Thánh Cầu Từ 聖求詞.  

 

薄倖 - 呂渭老  Bạc Hãnh - Lữ Vị Lão

 

青樓春                 Thanh lâu xuân vãn.

晝寂寂、梳勻Trú tịch tịch, sơ quân hựu lãn.

乍聽得、鴉啼鶯哢,Sạ thính đắc, nha đề oanh lộng,

惹起新愁無         Nhạ khởi tân sầu vô hạn.

記年時、偷擲春心,Ký niên thời, thâu trịch xuân tâm,

花間隔霧遙相     Hoa gian cách vụ dao tương kiến.

便角枕題詩,             Tiện giác chẩm đề thi,

寶釵貰酒,                 Bảo thoa thế tửu,

共醉青苔深         Cộng túy thanh đài thâm viện.

 

怎忘得、迴廊下,     Chẩm vong đắc, hồi lang hạ,

攜手處、花明月滿Huề thủ xứ, hoa minh nguyệt mãn.

如今但暮雨,             Như kim đản mộ vũ,

蜂愁蝶恨                 Phong sầu điệp hận,

小窗閒對芭蕉     Tiểu song nhàn đối ba tiêu triển.

卻誰拘                 Khước thùy câu quản.

盡無言、閒品秦箏,Tận vô ngôn, nhàn phẩm tần tranh,

淚滿參差             Lệ mãn sâm si nhạn.

腰支漸小,                 Yêu chi tiệm tiểu,

心與楊花         Tâm dữ dương hoa cộng viễn.

 

Chú Thích

1- Bạc hãnh 薄倖: tên từ bài, gồm 108 chữ, trắc vận. Cách luật:

 

T B B T vận

T X T, B B T T vận

T X T, B B B T cú

X T X B X T vận

T X B, B T B B cú

B B T T B B T vận

T T T B B cú

X B X T cú

X T B B X T vận

 

X X T, B B T cú

X T T, X B T T vận

X B X X T cú

B B X T cú

X B X T B B T vận

T B B T vận

T B B, B T B B cú

X T B B T vận

B B T T cú

X T B B T T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Thanh lâu 青樓: phiếm chỉ nhà lầu của phụ nữ quý tộc, khuê các. Xuất xứ từ bài thơ “Mỹ nữ thiên 美女篇” của Tào Thực 曹植 đời Tam Quốc:

 

借問女何居,Tá vấn nữ hà cư, Hãy hỏi cô ở đâu,

乃在城南端,Nãi tại thành nam đoan, Thì ở tại cửa chính thành phía nam.

青樓臨大路,Thanh lâu lâm đại lộ, Nhà sơn mầu xanh hướng về đại lộ,

高門結重關.   Cao môn kết trùng quan. Cửa cao có cài 2 lần then cửa.

 

3- Xuân vãn 春晚= vãn xuân 晚春: cuối mùa xuân. Trong cổ điển văn chương, cảnh “Vãn xuân” thường xuất hiện trăm hoa tàn rụng linh lạc tạo nên chữ “Sầu”, và nuối tiếc mùa xuân.

4- Tịch tịch 寂寂 = tịch mịch 寂寞: cô đơn buồn tẻ.

5- Sơ quân 梳勻 = sơ đầu quân diện 梳頭勻面 chải đầu và thoa phấn son, trang điểm.

6- Sạ : chợt, đột nhiên.突然。

7- Lộng : tiếng chim kêu.

8- Nhạ : khiến cho.

9- Niên thời 年時: năm đó.

10- Thâu trịch xuân tâm 偷擲春心: âm thầm luyến ái một người, tự đem lòng hứa hẹn với người.

11- Hoa gian 花間: giữa khóm hoa, giàn hoa, vườn hoa.

12- Giác chẩm 角枕: dùng vật trang sức làm bằng sừng gắn trên gối.

13- Thế Tửu 貰酒: đổi vật gì lấy rượu. Bảo thoa thế tửu 寶釵貰酒: đem thoa quý đổi lấy rượu.

14- Hồi lang 迴廊: hành lang khúc chiết.

15- Phong sầu điệp hận 蜂愁蝶恨:  ong buồn bướn hận, buồn hận vì tình.

16- Thùy : ai, cái gì. Khước thùy câu quản 卻誰拘管: lại không có cái gì quản thúc (tình tứ).

17- Nhàn : nhàn hạ. không có gì làm. Phẩm : diễn tấu.

18- Tần tranh 秦箏: tức là đàn cổ tranh 古箏 do một người nước Tần cải biến nên gọi là Tần tranh.

19- Sâm si nhạn 差雁: chỉ những trụ nâng dây đàn tranh như những con nhạn cài so le với nhau. Sâm si 參差 = so le.

20- Yêu chi 腰支: đoạn thân mình ở dưới ngực, ngang thắt lưng.

21- Dương hoa 楊花: hoa dương liễu.

 

Dịch Nghĩa

Nhà khuê các lúc cuối xuân.

Ngày cô đơn buồn tẻ lại lười trang điểm.

Chợt nghe thấy tiếng quạ kêu, chim oanh hót,

Khiến dâng lên mối sầu mới vô hạn.

Nhớ năm xưa, âm thầm luyến ái người,

Giữa đám hoa và cách làn sương ở xa trông thấy nhau.

Thế rồi (yêu nhau thắm thiết) viết thơ lên gối (cái gối đầu),

Tôi lấy cái thoa quý cầm thế đổi lấy rượu,

Cùng say sưa trong nhà viện sâu kín phủ rêu xanh.

 

Làm sao quên được, trong hành lang khúc chiết,

Nơi dắt tay nhau, hoa đẹp trăng đầy.

Như ngày nay chỉ có mưa chiều (liên miên),

Ong buồn bướm hận (buồn hận vì tình),

Cây chuối lá xòe ra ngay trước cửa sổ nhỏ.

(Lòng bực bội đang phát tiết)

Lại còn có ai đến lo toan việc này.

Không còn lời nào để nói, nản lòng gẩy khúc đàn tranh,

Nước mắt rơi đầy trên phím đàn.

(nước mắt rơi đầy trên những miếng gỗ căng dây đàn hình chim nhạn, xếp thành hàng so le nhau).

Lưng eo (của mình) dần nhỏ lại (thân hình dần gầy đi),

Tâm tình cùng bay xa theo với hoa dương liễu.

 

Phỏng Dịch

 

1 Bạc Hãnh – Khuê Oán

 

Lầu xanh xuân muộn.

Ngày tịch mịch, phấn son ươn lãn.

Chợt nghe thấy, kêu gào oanh quạ,

Gợi mối sầu thương vô hạn.

Nhớ năm xưa, mê luyến âm thầm,

Giàn hoa khói phủ trông xa bạn.

Quấn quít mối tình thơ,

Thoa vàng đổi rượu,

Cộng túy rêu phong nhà vắng.

 

Sao quên được, hành lang ấy,

Tay nắm dắt, hoa tươi nguyệt mãn.

Đến nay chiều mưa gió,

Tình sầu ái hận,

Ba tiêu bực tức bên song oán.

Có người nào quản.

Nói gì đây, buồn gẩy đàn tranh,

Lệ ướt tràn phím nhạn.

Thân gầy vóc hạc,

Lòng với hoa dương gió thoảng.

 

2 Khuê Oán

 

Khuê phòng xuân sắp tàn,

Tịch mịch đang tràn lan.

Chán nản và lười biếng,

Không son phấn điểm trang.

 

Chợt nghe oanh hót vang,

Gợi mối sầu miên man.

Nhớ năm xưa luyến ái,

Đến với người tình lang.

 

Cách sương hoa thấy bạn,

Thố lộ hết tâm can.

Cùng viết thơ trên gối,

Đẹp duyên thắm vẹn toàn.

 

Đem cầm thế bảo thoa,

Đổi mỹ tửu chan hòa.

Túy lúy trong thâm viện,

Rêu xanh phủ lầu hoa.

 

Làm thế nào quên được,

Hành lang khuất dắt tay.

Hoa đẹp trăng viên mãn,

Bên nhau mình đắm say.

 

Bây giờ chiều đổ mưa,

Buồn hận mấy cho vừa.

Ba tiêu buông cửa nhỏ,

Ai quản tình bơ vơ.

 

Lặng lẽ trong phòng loan,

Bâng khuâng dạo khúc đàn.

Tần tranh tấu mộ khúc,

Phím nhạn lệ dâng tràn.

 

Tấm thân gầy ái ngại,

Ngày tháng đang dần phai.

Tình ý xưa suy bại,

Theo dương hoa cuối trời.

 

HHD 01-2023