齊天樂 - 王沂孫
Tề Thiên Nhạc – Vương Nghi Tôn
蟬 Thiền
一襟餘恨宮魂斷,
Nhất khâm dư hận cung hồn đoạn,
年年翠陰庭樹。 Niên niên thúy âm đình thụ.
乍咽涼柯, Sạ
yết lương kha,
還移暗葉, Hoàn
di ám diệp,
重把離愁深訴。 Trùng bả ly sầu thâm tố,
西窗過雨。 Tây song quá vũ.
怪瑤佩流空, Quái
dao bội lưu không,
玉箏調柱。 Ngọc tranh điều trụ.
鏡暗妝殘, Kính
ám trang tàn,
為誰嬌鬢尚如許。 Vi thùy kiều mấn thượng như hứa.
銅仙鉛淚似洗, Đồng
tiên diên lệ tự tẩy,
嘆攜盤去遠, Thán
huề bàn khứ viễn,
難貯零露。 Nan trữ linh lộ.
病翼驚秋, Bệnh
dực kinh thu,
枯形閲世, Khô
hình duyệt thế,
消得斜陽幾度? Tiêu đắc tà dương kỷ độ?
餘音更苦。 Dư âm cánh khổ.
甚獨抱清商, Thậm
độc bão thanh thương,
頓成悽楚? Đốn thành thê sở?
謾想薰風, Mạn tưởng huân phong,
柳絲千萬縷。 Liễu ty thiên vạn lũ.
Chú Thích
1-
Tề thiên nhạc 齊天樂: tên từ bài, tên khác là “Thánh thọ tề
thiên nhạc mạn聖壽齊天樂慢”, “Đài thành lộ 臺城路”,
“Ngũ phúc giáng trung thiên 五福降中天”,
“Như thử giang sơn如此江山”. Bài này có 102 chữ, đoạn trước 10 câu, đoạn
sau 11 câu. Cách luật:
X B X T B B T cú
B X T B X T vận
X T B B cú
X B X T cú
X T X B X T vận
X B X T vận
T X T B B cú
X B B T vận
X T B B cú
X B X T T B T vận
X B
X T X T cú
T B
B T T cú
X X
B T vận
X T B B cú
X B X T cú
X T B B X T vận
X B X T vận
T X X B B cú
T B B T vận
X T B B cú
T B B T T vận
2- Thiền 蟬: ve sầu
3- Nhất khâm 一襟:
tràn ngập tấc lòng.
4- Cung hồn 宮魂: tức là hồn của Tề hoàng
hậu. Sách “Cổ kim Chú 古今注” quyển hạ của Thôi Báo 崔豹 đời
Tấn 晉 chép rằng:
“Ngưu Hanh vấn
viết: ‘Thiền danh Tề nữ giả, hà dã?’ Đáp viết: ‘Tề vương hậu phẫn nhi tử, thi
biến vi thiền, đăng đình thụ, huệ lệ nhi minh, Vương hối hận. Cố thế danh thiền
viết Tề nữ dã’牛亨問曰: ‘蟬名齊女者,何也?’答曰:
‘齊王后忿而死,尸變爲蟬,登庭樹,嘒唳而鳴,王悔恨。故世名蟬曰齊女也。”
(Ông Ngưu Hanh hỏi rằng: “Ve sầu được gọi
là Tề nữ, là sao vậy?” Đáp rằng: “Tề vương hậu phẫn uất mà chết, thây biến
thành ve sầu, bay lên cây trong sân, rơi lệ mà kêu, vua hối hận, Vì thế gọi ve
sầu là Tề Nữ vậy”).
Đoạn trên không nói vì sao mà Tề vương hậu phẫn uất nhưng
điển tích này thường trên thi từ đàn xuất hiện. Ví dụ như Lý Thương Ẩn 李商隱
trong
bài Hàn Hoành Xá Nhân tức sự 韓翃舍人即事 (Truyện
kể về quan Trung Thư Xá Nhân 中書舍人 Hàn Hoành) có thơ rằng:
鳥應悲蜀帝,Điểu ưng bi Thục đế, Chim (cuốc) là buồn
Thục đế,
蟬是怨齊王。Thiền thị oán Tề vương. Ve sầu thì oán
Tề vương.
5- Thúy âm 翠陰 = lục âm 綠蔭:
lùm lá cây xanh.
6- Yết 咽: nức nở.
7- Lương kha 涼柯:cành
cây trong mùa thu.
8- Ám diệp 暗葉: lá cây um tùm, u ám.
9- Ly sầu 離愁: nỗi sầu vì ly biệt.
10- Tây song 西窗: cửa sổ phía tây. Lấy chữ
từ bài thơ “Dạ vũ ký bắc 夜雨寄北” của Lý Thương Ẩn 李商隐:
何當共剪西窗燭,Hà đương cộng tiễn tây song chúc,
卻話巴山夜雨時。Khước thoại Ba sơn dạ vũ thì.
Khi nào chúng lại cùng cắt (bấc) nến ở tây
song,
Rồi lại nói chuyện lúc đêm mưa ở Ba sơn.
Vốn là để nói lúc lữ hành nhớ vợ con ở quê nhà. Về sau
cũng dùng để chỉ bạn bè hội tụ nói chuyện lúc đêm khuya. Trong bài này chữ “Tây
song” phiếm chỉ cửa sổ.
11- Quái 怪= quái lạ. Dao bội 瑤佩
=
dao bội thanh 瑤佩聲: (Tiếng ve sầu nghe như) tiếng ngọc chạm
vào nhau.
12- Ngọc tranh 玉箏:
cây đàn tranh quý báu.
13- Điều 調: điều chỉnh cái trụ để căng
dây đàn tranh. Ngọc tranh điều trụ 玉箏調柱: điều chỉnh các trụ căng
dây trên cây đàn tranh. Câu này ám chỉ tiếng ve kêu réo rắc như tiếng đàn
tranh.
14- Kính ám trang tàn 鏡暗妝殘:gương
mờ, trang sức tàn nhạt. Câu này và câu dưới có ý nói không trang điểm mà vì sao
bộ tóc đẹp như thế. Cung nhân Mạc Quỳnh
Thụ 莫瓊樹 của Ngụy Văn Đế Tào Phi 魏文帝曹丕 sáng
chế kiểu búi tóc hình cánh ve sầu gọi là “Thiền mấn 蟬鬢”,
lan truyền trong giới cung nhân và dân gian thời bấy giờ.
15- Vi thùy 為誰: vì đâu. Kiều mấn 嬌鬢:
mái tóc đẹp, chỉ cánh ve đẹp mỹ lệ.
16- Thượng như hứa 尚如許:
còn như thế!
17- Đồng tiên 銅仙 =
Kim đồng tiên nhân 金銅仙人 hay
Kim đồng tiên nhân thừa lộ bàn 金銅仙人承露盤. Sách Hán Thư 漢書
chép
rằng: vua Hán Võ Đế 漢武帝 cho
đúc 2 pho tượng hình người tiên bằng đồng ở trước Bách Lương Đài 柏梁台
và
Kiến Chương Cung 建章宫, trên tay pho tượng bưng một cái mâm cũng
bằng đồng để hứng sương trời. Sương hứng được sẽ trộn với ngọc tán nhỏ, làm thành
nước uống để tăng tuổi thọ. Pho tượng dựng trước Bách Lương Đài bị phá hủy do hỏa
hoạn vào năm 104 trước Tây Lịch.
18- Diên lệ 鉛淚: giọt nước mắt (của pho
trượng đồng long lanh) như giọt chì hóa lỏng, lấy chữ từ bài “Kim đồng tiên nhân
từ Hán ca 金銅仙人辭漢歌” của Lý Hạ 李賀 đời
Đường:
空將漢月出宮門,Không
tương Hán nguyệt xuất cung môn,
憶君清淚如鉛水。Ức quân thanh lệ như diên thủy.
Chỉ cùng vầng trăng thời triều Hán đi ra
khỏi cửa cung,
(Tượng đồng) nhớ quân vương, rơi lệ trong
như giọt chì hóa lỏng.
Trong
thời Tam Quốc 三國, vua Ngụy Minh Đế Tào Duệ 魏明帝曹叡 cũng
muốn luyện thuốc trường sinh bèn sai người di dời pho tượng đồng ở Kiến Chương
Cung từ Trường An 長安 (kinh
đô nhà Hán) về Lạc Dương 洛陽 (kinh
đô nước Ngụy). Với phương tiện thời bấy giờ thì pho tượng này nặng quá, không đem
nổi, đàng phải bỏ lại ở Bá Thành 霸城 (tức Bá Lăng huyện 霸陵)
gần thị trấn Tây An 西安市, Trung Quốc.
19- Huề bàn khứ viễn 攜盤去遠:
đem mâm đi xa. Bàn 盤 = thừa lộ bàn 承露盤tức
là mâm hứng sương trên tay tượng đồng của Hán Võ Đế. Theo truyền thuyết dân
gian thì loài ve sầu chỉ ăn những giọt sương mà sống. Tác giả đem ghép việc pho
tượng hứng sương của Hán Cung bị di dời đi, không còn hứng sương nữa, với lúc tàn
lụi của mùa ve sầu để giúp cho bài từ thêm thú vị.
20- Linh lộ 零露: Giọt sương rơi xuống tự
nhiên. Lấy chữ từ Kinh Thi, Phẩm Trịnh Phong, bài Dã Hữu Mạn Thảo “詩經·鄭風·野有蔓草”:
野有蔓草,零露漙兮。 dã
hữu mạn thảo, linh lộ đoàn hề.
Bãi hoang dã có cỏ mọc tràn, giọt sương rơi
xuống nhiều chừ.
21- Bệnh Dực kinh thu 病翼驚秋:
cánh ve sầu bệnh suy tàn, sợ mùa thu.
22- Khô hình 枯形:
thân hình khô héo.
23- Tiêu đắc 消得:chịu
đựng được (bao lâu).
24- Tà dương 斜陽: ánh nắng buổi chiều.
25- Thanh thương 清商
=
thanh thương khúc 清商曲: loại nhạc phủ cổ xưa, âm điệu buồn bã,
chỉ tiếng kêu của ve sầu.
26- Thậm 甚= sao, vì sao.
27- Đốn 頓 =
đốn thời 頓時: tức thời, bỗng nhiên.
28- Mạn tưởng 謾想 =
mạn tưởng 漫想: không tưởng 空想,
tưởng đến cũng vô ích; Mạn 謾 =
mạn 漫
= đồ nhiên 徒然:
uổng phí, in vain.
29- Huân phong 薰風:
gió nồm, gió nam ấm áp, chỉ mùa hè.
Dịch Nghĩa
Ve sầu.
Hận lòng tràn ngập, cung phi hồn đoạn (hoá thành ve sầu),
Hằng năm đều tại lùm cây xanh trong sân kêu lên buồn bã.
Vừa tại cành cây mát nức nở,
Đã dời đến chùm lá u ám,
Lại đem chuyện ly biệt sầu khổ thố lộ.
Ngoài tây song mưa vừa tạnh.
Quái lạ, (tiếng ve sầu nghe như) tiếng ngọc đụng chạm
nhau lưu truyền trên không trung.
(Tiếng ve sầu kêu nghe như) tiếng đàn tranh (réo rắc).
Kính đã mờ, dung mạo đã tiều tụy,
(Nhưng) vì đâu cánh ve sầu còn đẹp như vậy?
Tượng người tiên bằng đồng (khi đi khỏi Hán cung) rơi
lệ long lanh như tắm,
(Đáng) than là (tượng) đem cái mâm đi xa,
Không còn chứa sương rơi nữa.
Đôi cánh bệnh hoạn sợ mùa thu.
Thân hình khô héo đã trải cuộc đời,
(Ve) còn chịu đựng được mấy độ hoàng hôn?
Tiếng kêu càng tỏ ra bi khổ.
Vì sao tự mình kêu lên những tiếng ai oán,
(Để) bỗng nhiên thành thê lương khổ sở?
Mơ tưởng vô bổ đến mùa gió ấm (khi xưa),
(Có) tơ liễu (bay) ngàn vạn cành.
Phỏng Dịch
1 Tề Thiên Nhạc – Ve Sầu
Ngập lòng thừa hận cung phi táng,
Năm năm góc vườn cổ thụ.
Chợt khóc cành thu,
Lại kêu lá ám,
Cùng với ly sầu minh tỏ.
Mưa tàn cửa sổ.
Lạ tiếng ngọc trên không,
Ngọc tranh căng trụ.
Tàn áo mờ gương,
Vì đâu đôi cánh đẹp như cũ?
Tiên đồng rơi lệ như tắm,
Thán đem mâm viễn xứ,
Khó chứa sương lộ.
Cánh bệnh sợ thu,
Thân khô trải thế,
Còn ngắm tà dương mấy độ?
Dư âm càng khổ.
Thảm thiết một mình sao?
Chợt thành thê sở.
Gió ấm mơ chi,
Vạn ngàn tơ liễu rủ.
2 Ve Sầu
Khi xưa oán hận trên đời,
Cung nhân oan thác chưa nguôi tâm tình.
Ve sầu ngưng tụ tinh anh,
Năm năm tìm đến bóng xanh sân vườn.
Chợt kêu nức nở cành lương,
Quay về lá ám khóc thương ly sầu.
Tây song mưa tạnh chưa lâu,
Lạ thay tiếng ngọc chuyển bầu không gian.
Tiếng nghe rền rĩ cung đàn,
Gương loan mờ ám điểm trang nhạt nhòa.
Vì đâu mãi vẫn mượt mà,
Cánh ve búi tóc cung nga tạo hình.
Tiên đồng tắm lệ long lanh,
Than vì mâm hứng sương linh xa vời.
Cánh tàn thu đến chơi vơi,
Thân khô trải thế, cuộc đời còn bao?
Dư âm càng khổ, vì đâu,
Tự mình mang nỗi oán sầu xướng ca.
Gió nồm mơ đến hè qua,
Vạn ngàn tơ liễu lòa xòa trời không.
HHD 12-2025













