8- Tần 頻: nhiều lần, tần độc ngữ 頻獨語 = nói 1 mình mãi.
Tìm người trong mộng miên man nơi nào?
Thi Văn và Nhiếp Ảnh
X T X B B T T vận
X T B B T vận
X T T B B cú
X T B B cú
X T B B T vận
X B X T B B T vận
T T B B T vận
X T T B B cú
X T B B cú
X T B B T vận
X: Bất luận; T:
thanh trắc; B: thanh bằng; cú: hết câu; vận: vần
1 Túy Hoa Âm – Thu Cô Đơn
Sương mỏng mây dầy
sầu suốt buổi.
Thụy não lư đồng
chảy.
Tiết đẹp lại
trùng dương,
Gối ngọc màn tơ,
Hơi lạnh đêm
xuyên tới.
Dậu đông nâng rượu
sau chiều tối.
Tay áo hương thơm
vợi.
Chớ nói chẳng
tiêu hồn,
Cuốn gió màn thu,
Gầy sánh hoa vàng
bội.
2 Thu Cô Đơn
1 Như Mộng Lệnh - Hải Đường
Đêm Mưa
Đêm trước mưa thưa gió hú.
Mùi rượu không tiêu vùi ngủ.
Thử hỏi bé người hầu,
Lại nói hải đường như cũ.
Biết chứ?
Biết chứ?
Lẽ phải lá nhiều hoa rũ.
2 Hải Đường Đêm Mưa
菩薩蠻 - 晏幾道 Bồ Tát Man
- Án Kỷ Đạo
哀箏一弄湘江曲, Ai tranh nhất
lộng Tương giang khúc,
聲聲寫盡湘波綠。 Thanh thanh
tả tận tương ba lục.
纖指十三弦, Tiêm chỉ thập tam huyền,
細將幽恨傳。 Tế tương u hận truyền.
當筵秋水慢, Đương diên thu thủy mạn,
玉柱斜飛雁。 Ngọc trụ tà phi nhạn.
彈到斷腸時, Đàn đáo đoạn trường thì,
春山眉黛低。 Xuân sơn mi đại đê.
Chú Thích
1- Bồ tát man 菩薩蠻= Bồ tát man 菩薩鬘: Vốn là bài nhạc của
Đường giáo phường, sau dùng làm từ bài. Tên khác là “Tử dạ ca 子夜歌”, “Trùng điệp kim 重疊金” v.v. Bài từ này có 44 chữ, đoạn trước và đoạn sau đều có 4 câu, 2 trắc
vận và 2 bình vận. Cách luật:
X
B X T
B B T (vận),
B B
T T B
B T (vận).
T T
T B B (đổi vận),
T B
B T B (vận).
X B
B T T (đổi vận),
X T
B B T (vận).
X T
T B B (đổi vận),
X B
X T B (vận).
X = bất luận; B = bình thanh;
T = trắc thanh, vận = vần.
2- Ai tranh 哀箏: tiếng đàn tranh nghe buồn bã.
3- Lộng 弄: Chơi 1 khúc nhạc như gẩy đàn, thổi sáo…
4- Tương giang khúc 湘江曲: Tức là bài Tương giang oán 湘江怨
hay Tương phi 湘妃怨 hay Tương phi lệ 湘妃淚,
một bản nhạc cổ nổi tiếng của TH thời xưa nói về sự tích 2 vị cung phi của vua
Thuấn 舜tuẫn tiết ở sông Tương giang khi nghe tin vua Thuấn
băng hà.
5- Tương ba 湘波: sóng trên sông Tương.
6- Tiêm chỉ 纖指: ngón tay thon nhỏ.
7- Thập tam huyền十三弦: Đàn tranh cổ có 13 dây.
8- Tế tương u hận truyền 細將幽恨傳: câu này có thể hiểu là "Tương u hận tế truyền"
= đem chuyện u hận ngày xưa (2 vị phi của vua Thuấn tuẫn tiết) tỉ mỉ phát tán
ra, nói rõ ra, truyền ra.
9- Đương diên 當筵: ngay trong bữa tiệc rượu. Diên=chiếu tre.
10- Thu thủy秋水: ví với ánh mắt của nữ giới, trong vắt như nước mùa
thu.
11- Mạn: 慢=chậm, thong thả hay 漫=
tràn lan, chan hòa; Trong bài này đều có nghĩa là ngưng thần chú thị.
12- Ngọc trụ 玉柱hay nhạn trụ 雁柱: dụng cụ chế bằng
tre hay gỗ để căng dây đàn, đầu trên chống vào dây đàn, 2 chân ở đầu kia đứng
trên cây đàn trông giống như hình 1 con chim nhạn dang cánh. Cây đàn có 13 dây
thì có 13 cây trụ xếp nghiêng trông giống như 1 đàn nhạn đang bay. Ngọc trụ là
tiếng thường dùng trong văn chương cổ.
14- Đoạn trường: đau buồn, buồn
bã. Đoạn trường thì: đến lúc buồn bã.
15- Xuân sơn: sách Tây Lương
Tạp Ký 西京雜記của tác giả Lưu Hâm 劉歆
đời Tây Hán 西漢, quyển 2 viết: Trác Văn Quân 卓文君
xinh đẹp, mi sắc như vọng viễn sơn眉色如望遠山. Từ đấy về sau
văn chương ví đôi lông mày của mỹ nhân như dãy núi mùa xuân.
16- Mi Đại 眉黛: Đại 黛có nghĩa là phẩm mầu
xanh đen của phụ nữ dùng vẽ lông mày vì vậy văn chương gọi lông mày phụ nữ hay
gọi chung giới nữ lưu là "mi đại" hay "phấn đại". 4 chữ
xuân sơn mi đại là chỉ đôi chân mày người đẹp.
Dịch Nghĩa
Đàn tranh buồn gẩy bài tương
giang khúc,
Từng tiếng tả hết sóng xanh
sông Tương.
Ngón tay thon nhỏ (gẩy) mười
ba dây,
(Tới đây đã thấy người gẩy
đàn là nữ giớí)
Đem mối u hận xưa truyền đạt
ra.
Trên chiếu (tiệc rượu) ánh mắt
(người đẹp) chăm chú.
(Lại biết thêm người gẩy đàn
được thuê đến để giúp vui)
Những cây trụ ngọc như đàn nhạn
đang bay.
Đàn đến lúc (nghe) não lòng,
Đôi chân mày (của mỹ nhân) hạ
thấp xuống.
(Người cũng buồn theo tiếng
đàn)
Phỏng Dịch
1 Bồ Tát Man – Tương Giang
Oán
Đàn tranh buồn gẩy Tương
giang khúc,
Thanh thanh tả hết sóng Tương
lục.
Tay nắn mười ba dây,
U tình kể lể đầy.
Chiếu hoa đọng thu thủy,
Bầy nhạn bay ngọc trụ.
Khúc nhạc lúc buồn lòng,
Làn mi xanh nhẹ buông.
2 Tương Giang Oán
Tranh buồn gẩy khúc Tương
giang,
Thanh thanh tả hết vạn ngàn
sóng xanh.
Mười ba dây dạo ngón xinh,
Tiếng đàn kể lể ngọn ngành hận
xưa.
Chiếu hoa thu thủy thẫn thờ,
Nghiêng nghiêng trụ ngọc mơ hồ
nhạn bay.
Khúc đàn áo não lòng này,
Xuân sơn buông nhẹ chân mày
xanh xanh.
HHD 11-2017
Bản Dịch của Lộc Bắc
TƯƠNG GIANG OÁN.
(1)
Đàn
tranh buồn gảy Tương giang khúc
Từng thanh tả hết sóng xanh
giục
Tay nhỏ mười ba dây
Đem u hận giãi bầy
Chiếu hoa mắt chăm chú
Nhạn bay như ngọc trụ
Đàn
đến khúc đoạn trường
Mi hạ thấp bi thương
(2)
Đàn
buồn gảy khúc Tương giang
Từng thanh lột tả sóng tràn
nhuốm mây
Tay thon nắn nót từng giây
Cố đem u hận giải bầy tấc
gang
Mắt huyền trên chiếu đa đoan
Dõi theo bầy nhạn, trụ đàn ngọc
hương
Đàn
cho đến lúc đoạn trường
Xuân sơn mi thấp bi thương
não nề!
Lộc Bắc
July2018