Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Wednesday, December 4, 2024

Trường Đình Oán - Trương Viêm

亭怨 -  Trường Đình Oán – Trương Viêm

舊居有感  Cựu cư hữu cảm

 

望花外、小橋流水。Vọng hoa ngoại, tiểu kiều lưu thủy.

門巷愔愔,                 Môn hạng âm âm,

玉簫聲                 Ngọc tiêu thanh tuyệt.

鶴去臺空                 Hạc khứ đài không,

珮環何處弄明     Bội hoàn hà xứ lộng minh nguyệt?

十年前事,                 Thập niên tiền sự,

愁千折、心情頓Sầu thiên chiết, tâm tình đốn biệt.

露粉風香,                 Lộ phấn phong hương,

誰為主、都成消Thùy vi chủ, đô thành tiêu hiết.

 

                          Thê yết.

曉窗分袂處,             Hiểu phong phân mệ xứ,

同把帶鴛親         Đồng bả đái uyên thân kết.

江空歲晚,                 Giang không tuế vãn,

便忘瞭、尊前曾Tiện vong liệu, tôn tiền tằng thuyết.

恨西風、不庇寒蟬,Hận tây phong, bất tí hàn thiền,

便掃盡、一林殘Tiện tảo tận, nhất lâm tàn diệp.

謝楊柳多情,             Tạ dương liễu đa tình,

還有綠陰時         Hoàn hữu lục âm thời tiết.

 

Chú Thích

1- Trường đình oán長亭怨: tên từ bài, tên khác là “Trường đình oán mạn長亭怨慢”. Toàn bài có 97 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn có 5 trắc vận. Riêng bài này của Trương Viêm, đoạn trước chỉ có 4 trắc vận. Toàn bài không đổi vận. Cách luật:

 

T B T, T B B T cú

B T B B cú

T B B T vận

T T B B cú

T B B T T B T vận

T B B T cú

B B T, B B T T vận

T T B B cú

B B T, B B B T vận

 

B T vận

T B B T T cú

B T T B B T vận

B B T T cú

T B T, B B B T vận

T B B, T T B B cú

T T T, T B B T vận

T B T B B cú

B T T B B T vận

 

2- Cựu cư 舊居: chỉ nơi ở cũ của tác giả ở Lâm An 臨安, thủ đô nước Nam Tống 南宋, nay là thị trấn Hàng Châu 杭州, tỉnh Chiết Giang 浙江, TH.

3- Âm âm 愔愔: yên tĩnh tịch mịch.

4- Hạc khứ đài không 鶴去臺空: hạc đã bay đi để lâu đài trống không, chỉ cảnh hoang vu nơi ở cũ.  

5- Bội hoàn 珮環 = bội hoàn 佩環: vòng chuỗi ngọc trang sức của phụ nữ, cũng dùng để đại chỉ phụ nữ. Bội hoàn hà xứ lộng minh nguyệt 佩環何處弄明月: người mỹ nữ nay đã về đâu dưới đêm trăng. Tác giả mượn ý câu thơ của Đỗ Phủ 杜甫 trong bài “Vịnh hoài cổ tích kỳ 3 咏懷古迹其三”: 

 

畫圖省識春風面,Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện,

環珮空歸月夜魂。Hoàn bội không quy nguyệt dạ hồn.

(Quân vương) đã hốt lược xem bức họa diện (của Chiêu Quân),

Hồn Chiêu Quân đã quay về giữa đêm trăng.

 

6- Thập niên tiền sự 十年前事: chuyện 10 năm trước khi quân Nguyên tiến chiếm Hàng Châu. Theo trang mạng “Bách Độ Bách Khoa  百度百科https://wapbaike.baidu.com › tashuo”, ông nội Trương Viêm là Trương Nhu 張濡 bị bắt và bị giết. Cha là Trương Xu 張樞 không rõ số phận thế nào. Toàn bộ gia sản và thê thiếp đều bị tịch biên. Lúc đó Trương Viêm 27 tuổi, một mình đào thoát. Có lẽ chính thê của trương Viêm cũng thệ thế trong biến cố này.  

7- Đốn : Bỗng chốc, chợt, liền, tức khắc. Đốn biệt 頓別: bất chợt khác biệt. Đốn ngộ 頓悟: chợt ngộ ra.

8- Lộ phấn phong hương 露粉風香: phấn rơi ngoài đường, hương bay theo gió, chỉ cảnh cây cỏ hoang dã.

9- Tiêu hiết 消歇 = tiêu thất 消失: biến mất, tiêu tan.

10- Thê yết 凄咽: buồn thảm.

11- Phân mệ 分袂: chia tay, ly biệt.

12- Uyên = uyên ương 鴛鴦: đôi nam nữ tương ái. Đái uyên 带鴛: dây thắt lưng của đôi uyên ương. Đồng bả đái uyên thân kết 同把带鴛親结: đôi uyên ương cùng đem dây lưng nối lại với nhau, tỏ ý vĩnh bất phân ly. (Tác giả ám chỉ người vợ đã quá cố).

13- Tuế vãn 歲晚: năm hết, cuối năm.

14- Vong liễu 忘瞭: đã quên mất, hiển nhiên quên mất.

15- Tây phong 西風: gió thu, tác giả ám chỉ Nguyên Triều.

16- Tí : che chở. Bất tí 不庇: không che chở.

17- Hàn thiền 寒蟬: giống ve sầu sinh vào mùa thu, tác giả ám chỉ chính gia đình mình.

18- Nhất lâm tàn diệp 一林殘葉: một rừng lá rụng, tác giả ám chỉ toàn gia của chính mình.

19- Thời tiết 時節: ám chỉ lúc xuân đến.

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: Cảm tưởng khi thăm chốn ở cũ (ở Hàng Châu, lúc đó đã thuộc về Nguyên Triều).

 

Nhìn khóm hoa ngoài kia nơi cây cầu nhỏ có dòng nước chẩy,

Cửa ngõ (nơi ở xưa) yên tĩnh tịch mịch.

Tiếng tiêu (xưa thường nghe nay) mất hẳn.

Chim hạc đã bay đi mất, lâu đài trống không,

Mỹ nhân nay đã về đâu dưới đêm trăng sáng?

Chuyện mười năm trước,

Buồn tan nát, (Làm) tâm tình tôi hoàn toàn biến đổi.

(Vườn xưa) hoang vu phấn rụng hương bay, không ai làm chủ,

Đều đã tiêu tan.

 

Thê thảm.

Nơi chia tay lúc gió sớm,

Đã cùng đem dây lưng đôi lứa nối kết với nhau.

(Nay) lúc năm hết nơi dòng sông khoảng khoát (không thấy ai), 

Hẳn đã quên mất, lời xưa từng nói trong tiệc rượu (tiễn hành).

Hận gió thu không che chở đám ve sầu,

Bèn quét sạch, một rừng lá rụng.

Cảm ơn khóm dương liễu đa tình,

Còn có bóng mát lúc xuân về.

 

Phỏng Dịch

 

1 Trường Đình Oán - Thăm Chốn Xưa

 

Ngắm hoa khóm, dưới cầu lưu thủy.

Đường ngõ âm u,

Tiếng tiêu im tuyệt.

Hạc vắng đài không,

Mỹ nhân đâu chốn đón minh nguyệt?

Chuyện mười năm trước,

Sầu tan nát, tâm tình khác biệt.

Phấn gió hương bay,

Không người chủ, đều thành hoang triệt.

 

Thê thiết,

Biệt ly nơi gió sớm,

Cùng nối chặt dây thân kết.

Trời sông tết đến, 

Đã quên mất, Lời xưa từng quyết.

Hận tây phong, chẳng cứu ve sầu,

Quét sạch lá, một rừng không tiếc.

Cảm dương liễu đa tình,

Còn có bóng xanh xuân tiết.

 

2 Thăm Chốn Xưa

 

Nhìn khóm hoa bên cầu nước chẩy,

Cửa ngõ kia một dẫy không mầu,

Ngọc tiêu im tiếng từ lâu,

Đài không bóng hạc dãi dầu ngày qua.

 

Dưới trăng tà bội hoàn vắng vẻ,

Chuyện mười năm sầu bẻ ngàn lần.

Tâm tình cảm khái muôn phần,

Vườn xưa không chủ xa gần hoang vu.

 

Tận thê lương buổi từ biệt ấy,

Gió ban mai chốn đấy chia tay.

Uyên ương kết nối lòng này,

Hẹn rằng năm hết về đây trùng phùng.

 

Hẳn đã quên, khúc sông quạnh vắng, 

Lời nói xưa rượu đắng trên môi,

Hận gió thu chẳng che đời,

Hàn thiền, quét sạch một trời rừng cây.

 

Chỉ còn đây tươi mầu dương liễu,

Cảm tạ ngươi một nỗi đa tình.

Xuân về rủ bóng xanh xanh,

Đón người cố cựu đứng hình cảm thương.

 

HHD 11-2024

 

 

Saturday, November 9, 2024

Cao Dương Đài - Trương Viêm

高陽臺 - 張炎  Cao Dương Đài – Trương Viêm

西湖春感 Tây hồ xuân cảm

 

接葉巢鶯,                 Tiếp diệp sào oanh,

平波卷絮,                 Bình ba quyển nhứ,

斷橋斜日歸         Đoạn kiều tà nhật quy thuyền.

能幾番遊?                 Năng kỷ phiên du?

看花又是明         Khán hoa hựu thị minh niên.

東風且伴薔薇住,     Đông phong thả bạn tường vi trú,

到薔薇春已堪Đáo tường vi, xuân dĩ kham liên.

更悽、萬綠西泠,Cánh thê nhiên, vạn lục Tây Linh,

一抹荒                 Nhất mạt hoang yên.

 

當年燕子知何處?     Đương niên yến tử tri hà xứ?

但苔深韋曲,             Đản đài thâm vi khúc,

草暗斜                 Thảo ám Tà Xuyên.

見説新愁,                 Kiến thuyết tân sầu,

如今也到鷗         Như kim dã đáo âu biên.

無心再續笙歌夢,     Vô tâm tái tục sinh ca mộng,

掩重門淺醉閒Yểm trùng môn, thiển túy nhàn miên.

莫開、怕見飛花,Mạc khai liêm, phạ kiến phi hoa,

怕聽啼                 Phạ thính đề quyên.

 

Chú Thích

1- Cao dương đài 高陽臺 hay cao dương đài 高陽台: tên từ bài lấy từ bài cao đường phú 高唐賦 của Tống Ngọc 宋玉 khi xưa. Tên khác là Khánh xuân trạch 慶春澤. Khánh xuân cung 慶春宮, Khánh xuân trạch mạn 慶春澤慢. Bài này có 100 chữ, đoạn trước và đoạn sau đều có 4 bình vận. Toàn bài không đổi vận. Cách luật (long phổ định cách):

 

X T B B cú

B B T T cú

X B X T B B vận

X T B B cú

X B X T B B vận

X B X T B B T cú

T X B, X T B B vận

T B B, X T B B cú

X T B B vận

 

B B T T B B T cú

T B B X T cú

X T B B vận

X T B B cú

X B X T B B vân

X B X T B B T cú

T X B, X T B B vận

 T B B, X T B B cú

X T B B vận

 

B: thanh bình; T: thanh trắc; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Tây hồ 西湖: hồ nước là thắng cảnh ở Hàng Châu, TH.

3- Tiếp diệp sào oanh 接葉巢鶯: lá cây liền nhau, chim oanh làm tổ. Do bài thơ “Bồi Trịnh Quảng Văn du Hà Tướng quân sơn lâm kỳ 2 陪鄭廣文遊何將軍山林其二: bồi tiếp ông Trịnh Quảng Văn đi chơi khu vườn rừng của Hà tướng quân” của Đỗ Phủ 杜甫:  

 

卑枝低結子,Ty chi đê kết tử, Quả (trên cây) làm cành thấp xuống,

接葉暗巢鶯。Tiếp diệp ám sào oanh. Lá cây liền nhau, ẩn tàng tổ chim oanh.

 

4- Bình ba 平波: sóng lặng. 

5- Đoạn kiều 斷橋: tên một cây cầu ở Hàng Châu, TH.

6- Tà nhật 斜日: buổi chiều lúc mặt trời sắp lặn.

7- Đông phong 東風: gió xuân. Từ cổ đại người Trung Hoa đã tương phối bốn mùa, tứ phương, mầu sắc với ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ 金木水火土) và bát quái (càn, khảm cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài 乾坎艮震 巽離坤兌). Theo đó thì phương đông và mùa xuân thuộc hành mộc và quẻ chấn, phương tây và mùa thu thuộc hành kim và quẻ đoài, phương nam và mùa hạ thuộc hành hỏa và quẻ ly, phương bắc và mùa đông thuộc hành thủy và quẻ khảm. Văn chương cổ thường chiếu theo điều này mà gọi gió xuân là gió đông, gió thu là gió tây (đôi khi gọi là kim phong = gió vàng).

8- Thả: hãy.

9- Tường vi薔薇: loại cây hoa hồng leo thường trồng ở hàng rào.

10- Kham liên = trị đắc khả liên值得可憐: đáng được thương tiếc.

11- Tây Linh西泠: tên một cây cầu ở Tây hồ, Hàng Châu杭州, TH.

12- Nhất mạt 一抹 = nhất phiến 一片: một phiến, một tấm.

13- Vi khúc 韋曲:  địa danh. Vào đời Đường , ở phía nam thành Trường An  長安 có gia đình quý tộc họ Vi 韋 sinh sống ở đây qua nhiều thế đại vì vậy mang tên Vi Khúc.   

14- Tà Xuyên 斜川: tên đất, là một thắng cảnh nằm bên cạnh thị trấn Tinh Tử  星子thuộc tỉnh Giang Tây 江西, TH.   

15- Âu biên 鷗邊: Theo sách “Quốc Ngữ Từ Điển Giản Biên Bản 國語辭典簡編本” của Lý Tiển 李鍌 ở Đài Loan 台灣 thì chữ “Âu Biên” có nghĩa là thủy biên 水邊 = bên bờ nước. Trong bài này, chữ âu biên ngụ ý nói vì sầu muộn mà đầu bạc như lông chim sa âu 沙鷗. Dẫn chứng là trong một bài từ Bồ tát man 菩薩蠻 của Tân Khí Tật 辛棄疾 có câu:  

 

拍手笑沙鷗,Phách thủ tiếu sa âu, Vỗ tay cười chim sa âu,

一身都是愁。Nhất thân đô thị sầu. Toàn thân đều (trắng như) là sầu muộn.

   

16- Sinh ca 笙歌: sênh ca, tấu nhạc và ca hát, đàn hát. Sinh ca mộng 笙歌夢:  mơ đến những ngày đàn hát vui vẻ, mơ đến những ngày vui xưa.

17- Trùng môn 重門: cửa đôi.

18- Nhàn miên 閒眠: giấc ngủ, giấc ngủ không bị quấy nhiễu. Mượn chữ của Bạch Cư Dị 白居易 trong bài thơ “Nhàn miên 閑眠”:

 

暖牀斜臥日曛腰,Noãn sàng tà ngọa nhật huân yêu,

一覺閑眠百病銷。Nhất giáo nhàn miên bách bệnh tiêu. 

Nằm nghiêng trên giường ấm ánh nắng chiều chiếu eo,

Một giấc ngủ an lành trăm bệnh tiêu tan.

 

19- Đề quyên 啼鵑: chim cuốc kêu.

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: Cảm tưởng mùa xuân ở Tây Hồ.

Chim oanh làm tổ trong lá cây um tùm,

(Nước hồ) phẳng lặng, nhánh dương liễu xoắn với nhau,

Lúc hoàng hôn thuyền quay về nơi Đoạn Kiều.

(Còn) có thể đi chơi xuân được mấy lần? (vì xuân sắp hết)

(Muốn) xem hoa lại (phải chờ) sang năm.

Gió xuân hãy làm bạn với hoa tường vi,

Chờ khi hoa tường vi nở, mùa xuân đã (thoi thóp đến) đáng thương.

Càng thê lương (là), vạn cây xanh ở Tây Linh…

(Chỉ còn là) một phiến khói sương hoang dã.

 

Những chim yến năm xưa (ở đây) nay về đâu?

Chỉ (thấy) rêu xanh phủ dầy chốn hào môn cư sở,

Cỏ mọc tràn lan nơi thắng cảnh xưa.

Thấy nói đến cái sầu mới (này),

Như nay cũng đến với cả chim sa âu.

(Tôi) không có lòng nào nối lại giấc mộng hoan lạc xưa,

(Mà) đóng kín cửa nhà, (Nhâm nhi) chút rượu say ngủ một giấc an nhàn.

Chớ vén màn cửa, (tôi) sợ nhìn thấy hoa tàn bay bay,

Sợ nghe thấy tiếng chim cuốc kêu (bi thiết) (nhớ nước cũ mà đau lòng).  

 

Phỏng Dịch

 

1 Cao Dương Đài – Tây Hồ Xuân Cảm

 

Lá nối chim oanh,

Hồ yên liễu cuốn,

Thuyền về cầu Đoạn chiều tà,    

Còn mấy du xuân?

Sang năm mới lại xem hoa.

Gió xuân hãy bạn tường vi ấy,

Đến tường vi, xuân đã mờ nhòa.

Càng thê lương, lục sắc Tây Linh,

Một phiến sương sa.

 

Năm xưa cánh én về đâu đó?

Lớp rêu xanh lầu các,

Cỏ ám quê nhà.

Thấy nói tân sầu,

Ngày nay đến cả cò ta.

Lòng nào nối tiếp đàn ca mộng,

Cửa cài then, giấc ngủ say ngà.

Hãy buông rèm, sợ thấy hoa bay,

Sợ cuốc kêu ca.

 

2 Tây Hồ Xuân Cảm

 

Lá dầy xây tổ chim oanh,

Nước hồ phẳng lặng xoắn cành liễu dương.

Thuyền về cầu Đoạn tà dương,

Chơi xuân còn được lên hương mấy lần?

 

Sang năm đợi ngắm hoa xuân,

Gió xuân xin hãy bạn gần tường vi.

Tường vi hoa nở đến kỳ,

Ngày xuân thương cảm buồn vì tàn nhanh.

 

Càng thê thảm vạn cây xanh,

Khói hoang một phiến Tây Linh đượm mầu.

Năm xưa chim yến nay đâu?

Lớp rêu dầy phủ ngập lầu phồn hoa.

 

Tà Xuyên cỏ ám mọi nhà,

Thấy rằng sầu mới như là chim âu.

Sênh ca mộng, không lòng nào,                                                   

Cửa đôi khép kín rượu vào ngủ yên.

 

Ai ơi xin chớ mở rèm,

Sợ nhìn hoa rụng trước thềm tung bay.

Sợ nghe chim cuốc hồn ngây,

Đau lòng nhớ nước đêm ngày than van.        

 

HHD 10-2024

 

Saturday, October 26, 2024

Sương Thiên Hiểu Giác - Tưởng Tiệp

霜天曉角-蔣捷  Sương Thiên Hiểu Giác - Tưởng Tiệp

折花  Chiết hoa

 

人影窗                 Nhân ảnh song sa.

是誰來折             Thị thùy lai chiết hoa.

折則從他折去,         Chiết tắc tùng tha chiết khứ,

知折去、向誰     Tri chiết khứ, hướng thùy gia.

 

                          Diêm nha,

枝最                      Chi tối giai.

折時高折             Chiết thời cao chiết ta.

說與折花人道,         Thuyết dữ chiết hoa nhân đạo,

須插向、鬢邊     Tu sáp hướng, mấn biên tà.

 

Chú Thích

1- Sương thiên hiểu giác霜天曉角: tên từ bài. Tên khác là “Nguyệt đương song 月當窗”, “Đạp nguyệt踏月”, “Trường kiều nguyệt長橋月”. Bài này có 43 chữ, bình vận (cách luật khác dùng trắc vận). Cách luật:

 

B T B B vận

T B B T B vận

T T B B T T cú

B T T, T B B vận

 

B B vận

B T B vận

T B B T B vận

T T T B B T cú

B T T, T B B vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; cú: hết câu; vận: vần


2- Song sa 窗紗 = sa song 紗窗: cửa sổ có che màn lụa. Nhân ảnh song sa 人影窗紗 = sa song nhân ảnh 紗窗人影: bóng người ở màn cửa sổ.

3- Tùng : nghe theo.

4- Hướng : đến.

5- Diêm (thiềm) =: mái nhà. Diêm nha 檐牙: mái cong như cái răng hoặc lớp ngói nơi hàng hiên, chỗ giọt mưa rơi xuống, trông lởm chởm như hàm răng.  

6- Ta : một số, một ít.

7- Đạo : rằng.

8- Sáp (tháp) : cắm vào.

9- Mấn : tóc mai. Tà : nghiêng.

 

Dịch Nghĩa

Hái hoa.

 

(Có) bóng người trên màn của sổ,

Là ai đó đến hái hoa.

Hái thời tùy ý người ấy hái đi,

(Đã) biết hái đem đi,

(Không biết) đến nhà ai.

 

Cành ở chỗ hiên nhà là tốt nhất,

Lúc hái nên hái cao hơn một tí,

Nói với người hái hoa rằng:

Nên cắm hoa ở chỗ,

Nghiêng bên tóc mai.

 

Phỏng Dịch

 

1 Sương Thiên Hiểu Giác – Hái Hoa

 

Hình ảnh màn sa,

Có ai đương hái hoa.

Hái cũng tùy lòng thỏa ý,

Cho hái đấy, biết đâu nhà,

 

Hiên tòa,

Cành đẹp xa.

Hái nên cao hái ta.

Nhắn nhủ với cô nàng ấy,

Nên cắm ở, tóc mai xòa.

 

2 Hái Hoa

 

Màn song chợt thấy bóng người,

Là ai vừa đến ngỏ lời hái hoa.

Hái thời do ở nàng ta,

Thỏa lòng thỏa ý nhưng nhà ở đâu?

 

Mái hiên cành đẹp sắc mầu,

Hái hoa nên bẻ lên cao đôi phần.

Cùng nàng nhắn nhủ ân cần,

Cắm nghiêng hoa thắm nơi gần tóc mai.

 

HHD 10-2024

 

  

Monday, October 21, 2024

Sơ Ảnh - Khương Qùy

疏影  - 姜夔  Sơ Ảnh – Khương Quỳ

辛亥之冬,餘載雪詣石湖。止既月,授簡索句,且徵新聲,作此兩曲,石湖把玩不已,使二妓隸習之,音節諧婉,乃名之曰《暗香》、《疏影》。

Tân hợi chi đôngdư đái tuyết nghệ thạch hồ. Chỉ ký nguyệtthụ giản sách cú, thả trưng tân thanhtác thử lưỡng khúcThạch Hồ bả ngoạn bất dĩsử nhị kỹ lệ tập chiâm tiết hài uyển, nãi danh chi viết “ám hương “, “sơ ảnh”.

 

苔枝                 Đài chi xuyết ngọc,

有翠禽小小,             Hữu thúy cầm tiểu tiểu,

枝上同宿                 Chi thượng đồng túc.

客裏相逢,                 Khách lý tương phùng,

籬角黃昏,                 Ly giác hoàng hôn,

無言自倚修         Vô ngôn tự ỷ tu trúc.

昭君不慣胡沙遠,     Chiêu Quân bất quán Hồ sa viễn,

但暗憶、江南江Đản ám ức, Giang Nam Giang Bắc.

想佩環、月夜歸來,Tưởng bội hoàn, nguyệt dạ quy lai,

化作此花幽         Hóa tác thử hoa u độc.

 

猶記深宮舊事,         Do ký thâm cung cựu sự,

那人正睡裏,             Ná nhân chính thụy lý,

飛近蛾                 Phi cận nga lục.

莫似春風,                 Mạc tự xuân phong,

不管盈盈                 Bất quản doanh doanh,

早與安排金         Tảo dữ an bài kim ốc.

還教一片隨波去,     Hoàn giao nhất phiến tùy ba khứ,

又卻怨、玉龍哀Hựu khước oán, Ngọc Long ai khúc.

等恁時、重覓幽香,Đẳng nhẫm thời, trùng mịch u hương,

已入小窗橫        Dĩ nhập tiểu song hoành bức.

 

Chú Thích

1- Sơ ảnh 疏影: tên từ bài do Khương Quỳ sáng tác. Bài này có 110 chữ, đoạn trước có 10 câu với 5 trắc vận, đoạn sau có 10 câu với 5 trắc vận. Toàn bài không đổi vận. Cách luật:

 

X B T T vận

T X B T T cú

X X B T vận

X T B B cú

X T B B cú

X X X X B T vận

X B X T B B T cú

X X X, X B B T vận

T X B, X T B B cú

X T X B B T vận

 

B T B B T T cú

T X X T T cú

B T B T vận

T T B B cú

X T B B cú

X T X B X T vận

X B X T B B T cú

X X T, X B B T vận

T X X, X T B B cú

X T T B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Tân hợi 辛亥: Đời vua Tống Quang Tông 宋光宗, niên hiệu Thiệu Hy 紹熙 nhị niên (Tây lịch 1191).

3- Đái tuyết 載雪: đi trong khi trời đổ tuyết.

4- Nghệ : đến.

5- Thạch Hồ 石湖: tên hồ ở phiá tây nam tỉnh Tô Châu 蘇州. Nhà thơ Phạm Thành Đại 范成大 nghỉ hưu ở đây và lấy hiệu là Thạch Hồ Cư Sĩ 石湖居士.

6- Chỉ ký nguyệt 止既月: vừa cư trú được tròn 1 tháng.

7- Giản : giấy. Thụ giản sách cú 索句: cho giấy để đặt câu làm thơ.

8- Trưng tân thanh 徵新聲: trưng cầu từ điệu mới.

9- Bả ngoạn 把玩: hân thưởng.

10- Công kỹ 工妓: nhạc công và ca kỹ.  Bản khác chép “Nhị kỹ 二妓”: cùng một ý nghĩa.

11- Lệ tập 隸習: học tập. Bản khác chép “Tứ tập 肆習” hoặc “Dị tập 肄習”: cùng 1 ý nghĩa.

12- Âm tiết 音節: âm thanh và tiết tấu.

13- Hài uyển 諧婉: hòa hài, uyển chuyển và hàm súc.

14- “Ám hương 暗香”, “Sơ ảnh 疏影”: mượn chữ trong bài thơ “Sơn viên tiểu mai 山園小梅” của Lâm Bô 林逋:

 

疏影橫斜水清淺,Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển,

暗香浮動月黃昏。Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn. 

Hình ảnh thưa thớt nằm ngang, nghiêng trên làn nước trong và nông cạn,

Mùi thơm nhẹ nhàng bay lan trong buổi hoàng hôn dưới ánh trăng.”

 

15- Đài chi 苔枝: cành mai phủ rêu. Xuyết ngọc 綴玉, còn đọc là chuế ngọc: hoa mai như ngọc đẹp gắn đầy cành. Đài chi xuyết ngọc 苔枝綴玉: Cành mai phủ rêu xanh lại nở đầy hoa mai.  

16- Thúy cầm 翠禽 = thúy điểu 翠鳥: chim mầu xanh biếc. Sách Long Thành Lục 龍城錄 của Liễu Tông Nguyên 柳宗元 chép rằng vào đời nhà Tùy 隋 có người Triệu Sư Hùng 趙師雄, khi đi chơi ở núi La Phù Sơn 羅浮山, nằm mộng thấy cùng một thiếu nữ trang phục thanh đạm ăn cơm. Cùng với nữ lang lại có 1 tiểu đồng mặc áo xanh lục, cười vui hát múa. Khi tỉnh lại, Triệu thấy mình nằm dưới 1 gốc mai to, trên cây có 1 con chim xanh biếc hót vui. Triệu thấy trăng tàn đã ngả về tây mà trong lòng còn thấy bâng khuâng sầu muộn.

17- Khách lý 客裏: tại nơi xa xôi, không phải quê hương mình.

18- Ly giác 籬角: một góc của hàng rào.

19- Hoàng hôn 黃昏: lúc mặt trời đã lặn nhưng không gian vẫn còn sáng, chưa hoàn toàn tối.

20- Ỷ tu trúc 倚修竹: đứng gần khóm trúc cao.   

21- Chiêu quân 昭君:   tức Vương Chiêu Quân 王昭君, vốn là một cung phi, bị vua Hán Nguyên Đế 漢元帝 gả cho vua Hung Nô 匈奴. Vào đời Tấn , vì kỵ húy Tư Mã Chiêu 司馬昭 nên bà còn được gọi là Vương Minh Quân 明君 hay Minh Phi 明妃. Bốn câu cuối của đoạn trên từ chữ “Chiêu Quân” đến chữ “U độc”, lấy ý từ bài thơ “Vịnh Hoài Cổ Tích 詠懷古蹟” kỳ 3 của Đỗ Phủ 杜甫:

 

群山萬壑赴荊門,Quần sơn vạn hác phó kinh môn,

生長明妃尚有村。Sinh trưởng Minh phi thượng hữu thôn.

一去紫台連朔漠,Nhất khứ tử đài liên sóc mạc,

獨留青冢向黃昏。Độc lưu thanh trủng hướng hoàng hôn.

畫圖省識春風面,Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện,

環佩空歸夜月魂。Hoàn bội không quy dạ nguyệt hồn.

千載琵琶作胡語,Thiên tải tỳ bà tác Hồ ngữ,

分明怨恨曲中論。Phân minh oán hận khúc trung luân.

Xuyên qua ngàn núi vạn hang đến núi Kinh môn,

Đây là thôn làng nơi Vương Chiêu Quân sinh trưởng.

Từ biệt Hán cung nàng gả đến chốn sa mạc,

Chỉ còn lưu lại ngôi mộ “Thanh trủng” ánh hoàng hôn.

Nhà vua hốt lược dung nhan mỹ lệ trên bức họa,

Linh hồn Vương Chiêu Quân trở về trong đêm trăng,

Hàng ngàn năm tiếng tỳ bà còn vang

Khúc đàn nói lên rõ ràng những oán hận của Chiêu Quân

 

22- Bội hoàn 佩環: xâu chuỗi ngọc làm vật trang sức, ám chỉ phụ nữ.

23- U độc 幽獨: u uất cô độc.

24- Thâm cung cựu sự 深宮舊事: tác giả nói đến điển tích Thọ Dương Công Chúa 壽陽公主, là con của vua Tống Võ Đế 宋武帝, và cánh hoa mai rơi trên trán nàng.

25- Nga lục 蛾綠: chân mày của phụ nữ vẽ mầu xanh.  Phi cận nga lục 飛近蛾綠: bay đến gần chân mày xanh. Điển tích ghi chép rằng Thọ Dương công chúa 壽陽公主 là con của vua Tống Võ Đế 宋武帝, khi ban ngày đang nằm ở thềm Hàm Chương Điện 含章殿 thì bỗng có một bông hoa mai rơi vào trán, tạo thành ngấn hình hoa mai, 3 ngày sau mới tẩy sạch. Từ đó có tập tục vẽ hoa mai trên trán để trang điểm.  

26- Doanh doanh 盈盈: đẹp đẽ, chỉ hoa mai.

27- An bài kim ốc 安排金屋: Sách Hán Võ Cố Sự 漢武故 事 chép rằng thuở thiếu thời Hán Võ Đế Lưu Triệt 漢武帝劉徹 từng nói với Quán Đào công chúa 館陶公主 rằng: “Nếu lấy được A Kiều 阿嬌 làm vợ thì sẽ xây nhà vàng cho ở”. Quán Đào công chúa là cô ruột của Hán Võ Đế. Bà có người con gái là Trần A Kiều 陳阿嬌, sau này gả cho Hán Võ Đế. Từ đó có thành ngữ “Kim ốc tàng kiều 金屋藏嬌: nhà vàng chứa người đẹp”.   

28- Hựu khước oán又卻怨: lại vẫn (thấy trong lòng) ai oán.

29- Ngọc long  = ngọc địch 玉笛: cái ống sáo bằng ngọc. Mượn chữ trong bài phú “Trường địch phú 長笛賦” của Mã Dung 馬融 đời Đông Hán 東漢:

 

龍鳴水中不見己,Long minh thủy trung bất kiến kỷ,

截竹吹之聲相似。Tiệt trúc xuy chi thanh tương tự.

Rồng kêu trong nước không thấy mình,

Cắt trúc thổi thành âm thanh tương tự.”

 

Ngọc Long Ai khúc 玉龍哀曲: chỉ bài nhạc sáo “Mai Hoa Lạc 梅花落: hoa mai rơi rụng” âm điệu buồn bã.

30- Nhẫm thời 恁時: lúc đó.

31- Tiểu song hoành bức 小窗橫幅: một bức họa nơi cửa sổ nhỏ, mượn ý bài thơ “Thủy mặc mai kỳ ngũ 水墨梅其五: bức họa thủy mặc hoa mai kỳ 5” của Trần Dữ Nghĩa 陳與義:

 

自讀西湖處士詩,Tự đôc Tây Hồ xử sĩ thi,                      

年年臨水看幽姿。Niên niên lâm thủy khán u tư.

晴窗畫出橫斜影,Tình song họa xuất hoành tà ảnh,

絕勝前村夜雪時。Tuyệt thắng tiền thôn dạ tuyết thì.

Từ khi đọc bài thơ của nhà xử sĩ ở Tây Hồ, (tức thi nhân Lâm Bô 林逋)

Hằng năm đến bờ nước ngắm vẻ đẹp u nhã của hoa mai.

Ở cửa sổ quang đãng vẽ ra ảnh những cành hoa mai ngang và nghiêng.

Tuyệt hơn hẳn câu thơ đêm tuyết ở thôn trước (ngắm hoa mai) (tức bài Tảo Mai 早梅 của Tề Kỷ 齊己).

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: mùa đông năm tân hợi, tôi gội tuyết đến thăm Thạch Hồ cư sĩ. Cư sĩ yêu cầu tôi làm từ khúc mới. Do đó tôi làm 2 từ khúc này. Thạch Hồ cư sĩ ngâm thưởng không thôi, chỉ nhạc công và ca nữ luyện tập diễn xướng. Âm điệu và tiết luật êm tai uyển chuyển. Như vậy tôi theo lệnh cư sĩ đặt tên 2 ca khúc này là “Ám hương” và “Sơ ảnh”.

 

Cành rêu chắp hoa đẹp như ngọc.

Có (2 con) chim thúy cầm nho nhỏ,

Cùng đậu trên cành (mai).

Nơi tha hương gặp nhau (gặp cây hoa mai),

Trong buổi hoàng hôn ở góc hàng rào,

Lặng lẽ đứng dựa thân cây trúc cao.

Nàng Chiêu Quân không quen ở sa mạc xa trên đất Hồ,

Chỉ âm thầm tưởng nhớ (đất cũ) Giang Nam Giang Bắc.

(Tôi) Tưởng như người đẹp trở về trong đêm trăng,

Hóa thành cây hoa mai u uất cô độc này.

 

(Tôi) còn nhớ chuyện trong thâm cung khi xưa,

Người ấy (Thọ Dương công chúa) chính trong giấc ngủ,

(Cánh hoa mai) bay (đến rơi) gần chân mày.

Chớ đừng như ngọn gió xuân (vô tình),  

Không kể chi cái đẹp (của hoa mai), (mà gió thổi hoa bay tứ tán)

(Nên) sớm an bài nhà vàng (cho hoa mai). 

Còn để cho từng phiến hoa theo sóng trôi đi,

Lại vẫn ai oán nghe bài sáo buồn bã (mai hoa lạc).

Đợi đến lúc đó, lại đi tìm u hương (của hoa mai),

(Thì) đã vào bức họa vẽ (hoa mai ngoài) cửa sổ nhỏ.

 

Phỏng Dịch

 

1 Sơ Ảnh - Vịnh Mai

 

Cành rêu gắn ngọc.

Có chim xanh nhỏ bé,

Trên cành cùng lúc.

Đất khách tương phùng,

Góc dậu hoàng hôn,

Không lời tự dựa thân trúc.

Chiêu Quân không hợp vùng sa mạc,

Vẫn nhớ nhung, Giang Nam Giang Bắc.

Tưởng bội hoàn, trăng sáng về đây,

Biến hóa thành hoa cô độc.

 

Còn nhớ thâm cung chuyện cũ,

Chính người ấy lúc ngủ,

Bay đến mi lục.

Chớ giống xuân phong,

Mỹ lệ không màng,

Nên sớm ở yên kim ốc.

Còn theo sóng cánh tàn trôi nổi,

Lại ai oán, hoa rơi ca khúc.

Đến khi này, muốn thấy u hương,

Chỉ ngắm trong tranh treo bức.

 

2 Vịnh Mai

 

Cành rêu gắn ngọc long lanh,

Chim xanh nho nhỏ trên cành một đôi.

Tha hương gặp gỡ gốc mai,

Góc vườn dựa trúc khung trời hoàng hôn.

 

Đất Hồ xa lạ Chiêu Quân,

Nhớ thương Nam Bắc phách hồn quê xưa.

Bội hoàn về dưới trăng thơ,

Hóa thành một gốc mai cô độc này.

 

Thâm cung chuyện cũ nhớ người,

Khi xưa chính tại ngủ vùi giấc trưa.

Hoa mai bay đến bất ngờ,

Gần hàng mi thắm không mờ dấu in.

 

Đừng như ngọn gió vô tình,

Hoa xuân mỹ lệ điêu linh không màng.  

Lẽ ra phải chứa nhà vàng,

Sao còn theo sóng cánh tàn nổi trôi.

 

Điệu ai oán sáo lạc mai,

Lúc này hoa đã tơi bời sắc hương.

Tìm trong thủy mặc treo tường,

Ngoài song hoa lá bên đường phất phơ.

 

HHD 8-2022