Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Saturday, October 26, 2024

Sương Thiên Hiểu Giác - Tưởng Tiệp

霜天曉角-蔣捷  Sương Thiên Hiểu Giác - Tưởng Tiệp

折花  Chiết hoa

 

人影窗                 Nhân ảnh song sa.

是誰來折             Thị thùy lai chiết hoa.

折則從他折去,         Chiết tắc tùng tha chiết khứ,

知折去、向誰     Tri chiết khứ, hướng thùy gia.

 

                          Diêm nha,

枝最                      Chi tối giai.

折時高折             Chiết thời cao chiết ta.

說與折花人道,         Thuyết dữ chiết hoa nhân đạo,

須插向、鬢邊     Tu sáp hướng, mấn biên tà.

 

Chú Thích

1- Sương thiên hiểu giác霜天曉角: tên từ bài. Tên khác là “Nguyệt đương song 月當窗”, “Đạp nguyệt踏月”, “Trường kiều nguyệt長橋月”. Bài này có 43 chữ, bình vận (cách luật khác dùng trắc vận). Cách luật:

 

B T B B vận

T B B T B vận

T T B B T T cú

B T T, T B B vận

 

B B vận

B T B vận

T B B T B vận

T T T B B T cú

B T T, T B B vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; cú: hết câu; vận: vần


2- Song sa 窗紗 = sa song 紗窗: cửa sổ có che màn lụa. Nhân ảnh song sa 人影窗紗 = sa song nhân ảnh 紗窗人影: bóng người ở màn cửa sổ.

3- Tùng : nghe theo.

4- Hướng : đến.

5- Diêm (thiềm) =: mái nhà. Diêm nha 檐牙: mái cong như cái răng hoặc lớp ngói nơi hàng hiên, chỗ giọt mưa rơi xuống, trông lởm chởm như hàm răng.  

6- Ta : một số, một ít.

7- Đạo : rằng.

8- Sáp (tháp) : cắm vào.

9- Mấn : tóc mai. Tà : nghiêng.

 

Dịch Nghĩa

Hái hoa.

 

(Có) bóng người trên màn của sổ,

Là ai đó đến hái hoa.

Hái thời tùy ý người ấy hái đi,

(Đã) biết hái đem đi,

(Không biết) đến nhà ai.

 

Cành ở chỗ hiên nhà là tốt nhất,

Lúc hái nên hái cao hơn một tí,

Nói với người hái hoa rằng:

Nên cắm hoa ở chỗ,

Nghiêng bên tóc mai.

 

Phỏng Dịch

 

1 Sương Thiên Hiểu Giác – Hái Hoa

 

Hình ảnh màn sa,

Có ai đương hái hoa.

Hái cũng tùy lòng thỏa ý,

Cho hái đấy, biết đâu nhà,

 

Hiên tòa,

Cành đẹp xa.

Hái nên cao hái ta.

Nhắn nhủ với cô nàng ấy,

Nên cắm ở, tóc mai xòa.

 

2 Hái Hoa

 

Màn song chợt thấy bóng người,

Là ai vừa đến ngỏ lời hái hoa.

Hái thời do ở nàng ta,

Thỏa lòng thỏa ý nhưng nhà ở đâu?

 

Mái hiên cành đẹp sắc mầu,

Hái hoa nên bẻ lên cao đôi phần.

Cùng nàng nhắn nhủ ân cần,

Cắm nghiêng hoa thắm nơi gần tóc mai.

 

HHD 10-2024

 

  

Monday, October 21, 2024

Sơ Ảnh - Khương Qùy

疏影  - 姜夔  Sơ Ảnh – Khương Quỳ

辛亥之冬,餘載雪詣石湖。止既月,授簡索句,且徵新聲,作此兩曲,石湖把玩不已,使二妓隸習之,音節諧婉,乃名之曰《暗香》、《疏影》。

Tân hợi chi đôngdư đái tuyết nghệ thạch hồ. Chỉ ký nguyệtthụ giản sách cú, thả trưng tân thanhtác thử lưỡng khúcThạch Hồ bả ngoạn bất dĩsử nhị kỹ lệ tập chiâm tiết hài uyển, nãi danh chi viết “ám hương “, “sơ ảnh”.

 

苔枝                 Đài chi xuyết ngọc,

有翠禽小小,             Hữu thúy cầm tiểu tiểu,

枝上同宿                 Chi thượng đồng túc.

客裏相逢,                 Khách lý tương phùng,

籬角黃昏,                 Ly giác hoàng hôn,

無言自倚修         Vô ngôn tự ỷ tu trúc.

昭君不慣胡沙遠,     Chiêu Quân bất quán Hồ sa viễn,

但暗憶、江南江Đản ám ức, Giang Nam Giang Bắc.

想佩環、月夜歸來,Tưởng bội hoàn, nguyệt dạ quy lai,

化作此花幽         Hóa tác thử hoa u độc.

 

猶記深宮舊事,         Do ký thâm cung cựu sự,

那人正睡裏,             Ná nhân chính thụy lý,

飛近蛾                 Phi cận nga lục.

莫似春風,                 Mạc tự xuân phong,

不管盈盈                 Bất quản doanh doanh,

早與安排金         Tảo dữ an bài kim ốc.

還教一片隨波去,     Hoàn giao nhất phiến tùy ba khứ,

又卻怨、玉龍哀Hựu khước oán, Ngọc Long ai khúc.

等恁時、重覓幽香,Đẳng nhẫm thời, trùng mịch u hương,

已入小窗橫        Dĩ nhập tiểu song hoành bức.

 

Chú Thích

1- Sơ ảnh 疏影: tên từ bài do Khương Quỳ sáng tác. Bài này có 110 chữ, đoạn trước có 10 câu với 5 trắc vận, đoạn sau có 10 câu với 5 trắc vận. Toàn bài không đổi vận. Cách luật:

 

X B T T vận

T X B T T cú

X X B T vận

X T B B cú

X T B B cú

X X X X B T vận

X B X T B B T cú

X X X, X B B T vận

T X B, X T B B cú

X T X B B T vận

 

B T B B T T cú

T X X T T cú

B T B T vận

T T B B cú

X T B B cú

X T X B X T vận

X B X T B B T cú

X X T, X B B T vận

T X X, X T B B cú

X T T B B T vận

 

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Tân hợi 辛亥: Đời vua Tống Quang Tông 宋光宗, niên hiệu Thiệu Hy 紹熙 nhị niên (Tây lịch 1191).

3- Đái tuyết 載雪: đi trong khi trời đổ tuyết.

4- Nghệ : đến.

5- Thạch Hồ 石湖: tên hồ ở phiá tây nam tỉnh Tô Châu 蘇州. Nhà thơ Phạm Thành Đại 范成大 nghỉ hưu ở đây và lấy hiệu là Thạch Hồ Cư Sĩ 石湖居士.

6- Chỉ ký nguyệt 止既月: vừa cư trú được tròn 1 tháng.

7- Giản : giấy. Thụ giản sách cú 索句: cho giấy để đặt câu làm thơ.

8- Trưng tân thanh 徵新聲: trưng cầu từ điệu mới.

9- Bả ngoạn 把玩: hân thưởng.

10- Công kỹ 工妓: nhạc công và ca kỹ.  Bản khác chép “Nhị kỹ 二妓”: cùng một ý nghĩa.

11- Lệ tập 隸習: học tập. Bản khác chép “Tứ tập 肆習” hoặc “Dị tập 肄習”: cùng 1 ý nghĩa.

12- Âm tiết 音節: âm thanh và tiết tấu.

13- Hài uyển 諧婉: hòa hài, uyển chuyển và hàm súc.

14- “Ám hương 暗香”, “Sơ ảnh 疏影”: mượn chữ trong bài thơ “Sơn viên tiểu mai 山園小梅” của Lâm Bô 林逋:

 

疏影橫斜水清淺,Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển,

暗香浮動月黃昏。Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn. 

Hình ảnh thưa thớt nằm ngang, nghiêng trên làn nước trong và nông cạn,

Mùi thơm nhẹ nhàng bay lan trong buổi hoàng hôn dưới ánh trăng.”

 

15- Đài chi 苔枝: cành mai phủ rêu. Xuyết ngọc 綴玉, còn đọc là chuế ngọc: hoa mai như ngọc đẹp gắn đầy cành. Đài chi xuyết ngọc 苔枝綴玉: Cành mai phủ rêu xanh lại nở đầy hoa mai.  

16- Thúy cầm 翠禽 = thúy điểu 翠鳥: chim mầu xanh biếc. Sách Long Thành Lục 龍城錄 của Liễu Tông Nguyên 柳宗元 chép rằng vào đời nhà Tùy 隋 có người Triệu Sư Hùng 趙師雄, khi đi chơi ở núi La Phù Sơn 羅浮山, nằm mộng thấy cùng một thiếu nữ trang phục thanh đạm ăn cơm. Cùng với nữ lang lại có 1 tiểu đồng mặc áo xanh lục, cười vui hát múa. Khi tỉnh lại, Triệu thấy mình nằm dưới 1 gốc mai to, trên cây có 1 con chim xanh biếc hót vui. Triệu thấy trăng tàn đã ngả về tây mà trong lòng còn thấy bâng khuâng sầu muộn.

17- Khách lý 客裏: tại nơi xa xôi, không phải quê hương mình.

18- Ly giác 籬角: một góc của hàng rào.

19- Hoàng hôn 黃昏: lúc mặt trời đã lặn nhưng không gian vẫn còn sáng, chưa hoàn toàn tối.

20- Ỷ tu trúc 倚修竹: đứng gần khóm trúc cao.   

21- Chiêu quân 昭君:   tức Vương Chiêu Quân 王昭君, vốn là một cung phi, bị vua Hán Nguyên Đế 漢元帝 gả cho vua Hung Nô 匈奴. Vào đời Tấn , vì kỵ húy Tư Mã Chiêu 司馬昭 nên bà còn được gọi là Vương Minh Quân 明君 hay Minh Phi 明妃. Bốn câu cuối của đoạn trên từ chữ “Chiêu Quân” đến chữ “U độc”, lấy ý từ bài thơ “Vịnh Hoài Cổ Tích 詠懷古蹟” kỳ 3 của Đỗ Phủ 杜甫:

 

群山萬壑赴荊門,Quần sơn vạn hác phó kinh môn,

生長明妃尚有村。Sinh trưởng Minh phi thượng hữu thôn.

一去紫台連朔漠,Nhất khứ tử đài liên sóc mạc,

獨留青冢向黃昏。Độc lưu thanh trủng hướng hoàng hôn.

畫圖省識春風面,Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện,

環佩空歸夜月魂。Hoàn bội không quy dạ nguyệt hồn.

千載琵琶作胡語,Thiên tải tỳ bà tác Hồ ngữ,

分明怨恨曲中論。Phân minh oán hận khúc trung luân.

Xuyên qua ngàn núi vạn hang đến núi Kinh môn,

Đây là thôn làng nơi Vương Chiêu Quân sinh trưởng.

Từ biệt Hán cung nàng gả đến chốn sa mạc,

Chỉ còn lưu lại ngôi mộ “Thanh trủng” ánh hoàng hôn.

Nhà vua hốt lược dung nhan mỹ lệ trên bức họa,

Linh hồn Vương Chiêu Quân trở về trong đêm trăng,

Hàng ngàn năm tiếng tỳ bà còn vang

Khúc đàn nói lên rõ ràng những oán hận của Chiêu Quân

 

22- Bội hoàn 佩環: xâu chuỗi ngọc làm vật trang sức, ám chỉ phụ nữ.

23- U độc 幽獨: u uất cô độc.

24- Thâm cung cựu sự 深宮舊事: tác giả nói đến điển tích Thọ Dương Công Chúa 壽陽公主, là con của vua Tống Võ Đế 宋武帝, và cánh hoa mai rơi trên trán nàng.

25- Nga lục 蛾綠: chân mày của phụ nữ vẽ mầu xanh.  Phi cận nga lục 飛近蛾綠: bay đến gần chân mày xanh. Điển tích ghi chép rằng Thọ Dương công chúa 壽陽公主 là con của vua Tống Võ Đế 宋武帝, khi ban ngày đang nằm ở thềm Hàm Chương Điện 含章殿 thì bỗng có một bông hoa mai rơi vào trán, tạo thành ngấn hình hoa mai, 3 ngày sau mới tẩy sạch. Từ đó có tập tục vẽ hoa mai trên trán để trang điểm.  

26- Doanh doanh 盈盈: đẹp đẽ, chỉ hoa mai.

27- An bài kim ốc 安排金屋: Sách Hán Võ Cố Sự 漢武故 事 chép rằng thuở thiếu thời Hán Võ Đế Lưu Triệt 漢武帝劉徹 từng nói với Quán Đào công chúa 館陶公主 rằng: “Nếu lấy được A Kiều 阿嬌 làm vợ thì sẽ xây nhà vàng cho ở”. Quán Đào công chúa là cô ruột của Hán Võ Đế. Bà có người con gái là Trần A Kiều 陳阿嬌, sau này gả cho Hán Võ Đế. Từ đó có thành ngữ “Kim ốc tàng kiều 金屋藏嬌: nhà vàng chứa người đẹp”.   

28- Hựu khước oán又卻怨: lại vẫn (thấy trong lòng) ai oán.

29- Ngọc long  = ngọc địch 玉笛: cái ống sáo bằng ngọc. Mượn chữ trong bài phú “Trường địch phú 長笛賦” của Mã Dung 馬融 đời Đông Hán 東漢:

 

龍鳴水中不見己,Long minh thủy trung bất kiến kỷ,

截竹吹之聲相似。Tiệt trúc xuy chi thanh tương tự.

Rồng kêu trong nước không thấy mình,

Cắt trúc thổi thành âm thanh tương tự.”

 

Ngọc Long Ai khúc 玉龍哀曲: chỉ bài nhạc sáo “Mai Hoa Lạc 梅花落: hoa mai rơi rụng” âm điệu buồn bã.

30- Nhẫm thời 恁時: lúc đó.

31- Tiểu song hoành bức 小窗橫幅: một bức họa nơi cửa sổ nhỏ, mượn ý bài thơ “Thủy mặc mai kỳ ngũ 水墨梅其五: bức họa thủy mặc hoa mai kỳ 5” của Trần Dữ Nghĩa 陳與義:

 

自讀西湖處士詩,Tự đôc Tây Hồ xử sĩ thi,                      

年年臨水看幽姿。Niên niên lâm thủy khán u tư.

晴窗畫出橫斜影,Tình song họa xuất hoành tà ảnh,

絕勝前村夜雪時。Tuyệt thắng tiền thôn dạ tuyết thì.

Từ khi đọc bài thơ của nhà xử sĩ ở Tây Hồ, (tức thi nhân Lâm Bô 林逋)

Hằng năm đến bờ nước ngắm vẻ đẹp u nhã của hoa mai.

Ở cửa sổ quang đãng vẽ ra ảnh những cành hoa mai ngang và nghiêng.

Tuyệt hơn hẳn câu thơ đêm tuyết ở thôn trước (ngắm hoa mai) (tức bài Tảo Mai 早梅 của Tề Kỷ 齊己).

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: mùa đông năm tân hợi, tôi gội tuyết đến thăm Thạch Hồ cư sĩ. Cư sĩ yêu cầu tôi làm từ khúc mới. Do đó tôi làm 2 từ khúc này. Thạch Hồ cư sĩ ngâm thưởng không thôi, chỉ nhạc công và ca nữ luyện tập diễn xướng. Âm điệu và tiết luật êm tai uyển chuyển. Như vậy tôi theo lệnh cư sĩ đặt tên 2 ca khúc này là “Ám hương” và “Sơ ảnh”.

 

Cành rêu chắp hoa đẹp như ngọc.

Có (2 con) chim thúy cầm nho nhỏ,

Cùng đậu trên cành (mai).

Nơi tha hương gặp nhau (gặp cây hoa mai),

Trong buổi hoàng hôn ở góc hàng rào,

Lặng lẽ đứng dựa thân cây trúc cao.

Nàng Chiêu Quân không quen ở sa mạc xa trên đất Hồ,

Chỉ âm thầm tưởng nhớ (đất cũ) Giang Nam Giang Bắc.

(Tôi) Tưởng như người đẹp trở về trong đêm trăng,

Hóa thành cây hoa mai u uất cô độc này.

 

(Tôi) còn nhớ chuyện trong thâm cung khi xưa,

Người ấy (Thọ Dương công chúa) chính trong giấc ngủ,

(Cánh hoa mai) bay (đến rơi) gần chân mày.

Chớ đừng như ngọn gió xuân (vô tình),  

Không kể chi cái đẹp (của hoa mai), (mà gió thổi hoa bay tứ tán)

(Nên) sớm an bài nhà vàng (cho hoa mai). 

Còn để cho từng phiến hoa theo sóng trôi đi,

Lại vẫn ai oán nghe bài sáo buồn bã (mai hoa lạc).

Đợi đến lúc đó, lại đi tìm u hương (của hoa mai),

(Thì) đã vào bức họa vẽ (hoa mai ngoài) cửa sổ nhỏ.

 

Phỏng Dịch

 

1 Sơ Ảnh - Vịnh Mai

 

Cành rêu gắn ngọc.

Có chim xanh nhỏ bé,

Trên cành cùng lúc.

Đất khách tương phùng,

Góc dậu hoàng hôn,

Không lời tự dựa thân trúc.

Chiêu Quân không hợp vùng sa mạc,

Vẫn nhớ nhung, Giang Nam Giang Bắc.

Tưởng bội hoàn, trăng sáng về đây,

Biến hóa thành hoa cô độc.

 

Còn nhớ thâm cung chuyện cũ,

Chính người ấy lúc ngủ,

Bay đến mi lục.

Chớ giống xuân phong,

Mỹ lệ không màng,

Nên sớm ở yên kim ốc.

Còn theo sóng cánh tàn trôi nổi,

Lại ai oán, hoa rơi ca khúc.

Đến khi này, muốn thấy u hương,

Chỉ ngắm trong tranh treo bức.

 

2 Vịnh Mai

 

Cành rêu gắn ngọc long lanh,

Chim xanh nho nhỏ trên cành một đôi.

Tha hương gặp gỡ gốc mai,

Góc vườn dựa trúc khung trời hoàng hôn.

 

Đất Hồ xa lạ Chiêu Quân,

Nhớ thương Nam Bắc phách hồn quê xưa.

Bội hoàn về dưới trăng thơ,

Hóa thành một gốc mai cô độc này.

 

Thâm cung chuyện cũ nhớ người,

Khi xưa chính tại ngủ vùi giấc trưa.

Hoa mai bay đến bất ngờ,

Gần hàng mi thắm không mờ dấu in.

 

Đừng như ngọn gió vô tình,

Hoa xuân mỹ lệ điêu linh không màng.  

Lẽ ra phải chứa nhà vàng,

Sao còn theo sóng cánh tàn nổi trôi.

 

Điệu ai oán sáo lạc mai,

Lúc này hoa đã tơi bời sắc hương.

Tìm trong thủy mặc treo tường,

Ngoài song hoa lá bên đường phất phơ.

 

HHD 8-2022

 

 

 

   

Sunday, October 20, 2024

Nhất Tiễn Mai - Tưởng Tiệp

一剪梅 - 蔣捷  Nhất Tiễn Mai - Tưởng Tiệp

 舟過吳江 Châu quá Ngô giang.

 

一片春愁待酒     Nhất phiến xuân sầu đãi tửu kiêu.

江上舟                 Giang thượng châu dao,

樓上簾                 Lâu thượng liêm chiêu.

秋娘渡與泰娘     Thu nương độ dữ Thái nương kiều,

風又飄                 Phong hựu phiêu phiêu,

雨又蕭                 Vũ hựu tiêu tiêu.

 

何日歸家洗客     Hà nhật quy gia tẩy khách bào?

銀字笙調                 Ngân tự sinh điều,

心字香                 Tâm tự hương thiêu.

流光容易把人     Lưu quang dung dị bả nhân phao,

紅了櫻                 Hồng liễu anh đào,

綠了芭                 Lục liễu ba tiêu.

 

Chú Thích

1- Nhất tiễn mai 一剪梅: tên từ bài.  Tên khác là “Nam lữ cung 南呂宮”, “Nhất tiễn mai hoa vạn dạng kiều 一翦梅花萬樣嬌”, “Lạp mai hương 臘梅香”, “Ngọc đạm thu 玉簟秋”. Bài này có 60 chữ, song điệu, đoạn trước và đoạn sau đều có 6 câu với 4 bình vận. Toàn bài không đổi vận. Cách luật:

 

X  T  B  B  X  T  B vận

X  T  B  B cú

X  T  B  B vận

X  B  X  T  T  B  B cú

X  T  B  B cú

X  T  B  B vận

 

X  T  B  B  X  T  B vận

X  T  B  B cú

X  T  B  B vận

X  B  X  T  T  B  B cú

X  T  B  B cú

X  T  B  B vận

 

X: Bất luận; T: thanh trắc; B: thanh bằng; cú: hết câu; vận: vần

  

2- Ngô Giang 吳江 = Ngô Giang khu 江區: tên đất thuộc thị trấn Tô Châu蘇州, tỉnh Giang Tô 江蘇, TH, nơi có sông Ngô Tùng Giang 吳淞江 chẩy qua.

3- Kiêu : tưới, rót.  

4- Liêm = 酒簾: cái cờ của tửu điếm để chiêu khách. Liêm chiêu : chỉ cái cờ của tửu điếm phất phơ.   

5- Thu nương 秋娘 = Đỗ Thu Nương 杜秋娘: ngưởi đất Kim Lăng 金陵, nguyên là ca kỹ xinh đẹp lại có văn tài (Toàn Đường Thi quyển 6 chép bài thơ Kim lũ y 金縷衣 tương truyền do Đỗ Thu Nương sáng tác). Năm 15 tuổi Thu Nương gả cho Lý Kỹ 李錡 làm thiếp. Lý Kỹ vốn là tông thất Đường triều 唐朝 giữ chức Tiết độ sứ 節度使 ở Trấn Hải 鎮海. Lý Kỹ hưng binh làm phản nhưng thất bại, bị bắt và bị xử tử. Đỗ Thu Nương bị đưa vào cung làm nô tỳ, may được vua Hiến Tông 憲宗 sủng ái thành hoàng gia phi tử 妃子. Khi vua Mục Tông 穆宗 lên ngôi, bà vẫn được giữ lại trong cung vì có công nuôi dạy hoàng tử Lý Thấu 李湊. Trong một âm mưu loại trừ hoạn quan chuyên quyền thất bại, hoàng tử Lý Thấu bị truất bỏ tước vương và bà Đỗ Thu Nương bị đuổi về nguyên quán. Thi nhân Đỗ Mục 杜牧 đã gặp bà Đỗ Thu Nương già nua cơ hàn ở Kim Lăng. Ông cảm khái làm bài thơ Đỗ Thu Nương thi 杜秋娘詩, nói lên cuộc đời của bà. Trong bài này có hai câu nói về bà đi qua bến Ngô Giang hai lần, một lần từ Kim Lăng vào kinh đô và một lần hồi hương về Kim Lăng.

6- Thu Nương độ 秋娘渡: bến Thu Nương. Sau khi bài từ nhất tiễn mai của Tưởng Tiệp ra đời thì bến Ngô Giang được đổi tên thành bến Thu Nương. Trên bến có đúc một pho tượng Thu Nương và dựng một bia đá khắc bài từ nhất tiễn mai của Tưởng Tiệp.

7- Thái nương 泰娘 cũng viết là Thái Nương 泰孃: là một danh ca ở đất Ngô, được biết qua bài thơ “Thái Nương Ca 泰娘歌” của Đường Lưu Vũ Tích  劉禹錫.

8- Thái Nương kiều 泰娘橋: cũng do bài từ của Tưởng Tiệp mà một cây cầu ở bến Ngô Giang được gọi là cầu Thái Nương.

9- Phiêu phiêu 飄飄: hình dung tiếng gió thổi.

10- Tiêu tiêu 蕭蕭: hình dung tiếng mưa rơi.

11- Ngân tự sinh 銀字笙: một nhạc cụ gồm nhiều ống sáo ghép lại. Trên mỗi ống sáo có đề chữ bằng bạc cho biết độ cao thấp của âm thanh.

12- Điều 調 = điều lộng 調弄: chơi nhạc khí như gẩy đàn, thổi sáo.

13- Tâm tự hương 心字香: cây nhang, cây hương vòng có hình dạng quả tim.

14- Lưu quang 流光: thời gian trôi đi.

15- Phao : ném bỏ, vứt đi.

16- Anh đào 櫻桃: cây anh đào.

17- Ba tiêu 芭蕉: cây chuối.

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: (Làm bài này khi) thuyền đi qua Ngô Giang.

 

(Lòng tôi mang) một nỗi sầu (lưu lãng) khi mùa xuân đến, đợi rượu (để tiêu sầu).

Thuyền bồng bềnh trên sông,

Trên lầu có là cờ của tửu điếm phất phơ,

(Nơi đây là) bến sông Thu Nương, có cây cầu Thái Nương. 

(Tiếng) gió thổi vi vu,

(Tiếng) mưa rơi rào rào.

 

(Biết) ngày nào về quê nhà (để) giặt cái áo lữ hành? (để được đoàn tụ)

(Mình sẽ) thổi cái sênh có khắc chữ bạc,

(Mình sẽ) đốt cây nhang hình chữ tâm.

Thời gian trôi nhanh dễ làm người cảm thán. 

Cây anh đào biến hồng thắm,

Lá ba tiêu biến xanh tươi.

(Tả sự biến đổi của cảnh vật theo thời gian)

 

Phỏng Dịch

 

1 Nhất Tiễn Mai - Nhất Phiến Xuân Sầu

 

Đợi rượu xuân tâm một phiến sầu.

Trên bến thuyền chao.

Trên gác cờ dao.

Thu Nương bến Thái Nương cầu.

Gió lại lao xao.

Mưa lại rào rào.

 

Ngày ấy về nhà giặt khách bào.

Sáo bạc thanh tao.

Tâm cuộn hương thiêu.

Thời quang rất dễ đẩy người nhào.

Hoa đỏ anh đào.

Xanh lá ba tiêu.

 

2 Nhất Phiến Xuân Sầu

 

Xuân sầu một phiến chờ say,

Bồng bềnh thuyền đậu cờ bay trên lầu.

Thu Nương bến, Thái Nương cầu.

Gió đưa vi vút dạt dào tiếng mưa.

 

Giặt khách bào, về quê xưa,

Điệu ca sênh bạc khói mờ nén nhang.

Hại người quá dễ thời gian,

Anh đào hồng thắm xanh ngần ba tiêu.

 

HHD 10-2024













Tượng bà Thu Nương trên bến Ngô Giang