Saigon

Mtn Fuji Flowering Cherry

Mtn Hood

Thác Bản Giốc

Ngựa Hoang

Vịnh Hạ Long

Tứ Xuyên

Sakura

Saturday, November 9, 2024

Cao Dương Đài - Trương Viêm

高陽臺 - 張炎  Cao Dương Đài – Trương Viêm

西湖春感 Tây hồ xuân cảm

 

接葉巢鶯,                 Tiếp diệp sào oanh,

平波卷絮,                 Bình ba quyển nhứ,

斷橋斜日歸         Đoạn kiều tà nhật quy thuyền.

能幾番遊?                 Năng kỷ phiên du?

看花又是明         Khán hoa hựu thị minh niên.

東風且伴薔薇住,     Đông phong thả bạn tường vi trú,

到薔薇春已堪Đáo tường vi, xuân dĩ kham liên.

更悽、萬綠西泠,Cánh thê nhiên, vạn lục Tây Linh,

一抹荒                 Nhất mạt hoang yên.

 

當年燕子知何處?     Đương niên yến tử tri hà xứ?

但苔深韋曲,             Đản đài thâm vi khúc,

草暗斜                 Thảo ám Tà Xuyên.

見説新愁,                 Kiến thuyết tân sầu,

如今也到鷗         Như kim dã đáo âu biên.

無心再續笙歌夢,     Vô tâm tái tục sinh ca mộng,

掩重門淺醉閒Yểm trùng môn, thiển túy nhàn miên.

莫開、怕見飛花,Mạc khai liêm, phạ kiến phi hoa,

怕聽啼                 Phạ thính đề quyên.

 

Chú Thích

1- Cao dương đài 高陽臺 hay cao dương đài 高陽台: tên từ bài lấy từ bài cao đường phú 高唐賦 của Tống Ngọc 宋玉 khi xưa. Tên khác là Khánh xuân trạch 慶春澤. Khánh xuân cung 慶春宮, Khánh xuân trạch mạn 慶春澤慢. Bài này có 100 chữ, đoạn trước và đoạn sau đều có 4 bình vận. Toàn bài không đổi vận. Cách luật (long phổ định cách):

 

X T B B cú

B B T T cú

X B X T B B vận

X T B B cú

X B X T B B vận

X B X T B B T cú

T X B, X T B B vận

T B B, X T B B cú

X T B B vận

 

B B T T B B T cú

T B B X T cú

X T B B vận

X T B B cú

X B X T B B vân

X B X T B B T cú

T X B, X T B B vận

 T B B, X T B B cú

X T B B vận

 

B: thanh bình; T: thanh trắc; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

 

2- Tây hồ 西湖: hồ nước là thắng cảnh ở Hàng Châu, TH.

3- Tiếp diệp sào oanh 接葉巢鶯: lá cây liền nhau, chim oanh làm tổ. Do bài thơ “Bồi Trịnh Quảng Văn du Hà Tướng quân sơn lâm kỳ 2 陪鄭廣文遊何將軍山林其二: bồi tiếp ông Trịnh Quảng Văn đi chơi khu vườn rừng của Hà tướng quân” của Đỗ Phủ 杜甫:  

 

卑枝低結子,Ty chi đê kết tử, Quả (trên cây) làm cành thấp xuống,

接葉暗巢鶯。Tiếp diệp ám sào oanh. Lá cây liền nhau, ẩn tàng tổ chim oanh.

 

4- Bình ba 平波: sóng lặng. 

5- Đoạn kiều 斷橋: tên một cây cầu ở Hàng Châu, TH.

6- Tà nhật 斜日: buổi chiều lúc mặt trời sắp lặn.

7- Đông phong 東風: gió xuân. Từ cổ đại người Trung Hoa đã tương phối bốn mùa, tứ phương, mầu sắc với ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ 金木水火土) và bát quái (càn, khảm cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài 乾坎艮震 巽離坤兌). Theo đó thì phương đông và mùa xuân thuộc hành mộc và quẻ chấn, phương tây và mùa thu thuộc hành kim và quẻ đoài, phương nam và mùa hạ thuộc hành hỏa và quẻ ly, phương bắc và mùa đông thuộc hành thủy và quẻ khảm. Văn chương cổ thường chiếu theo điều này mà gọi gió xuân là gió đông, gió thu là gió tây (đôi khi gọi là kim phong = gió vàng).

8- Thả: hãy.

9- Tường vi薔薇: loại cây hoa hồng leo thường trồng ở hàng rào.

10- Kham liên = trị đắc khả liên值得可憐: đáng được thương tiếc.

11- Tây Linh西泠: tên một cây cầu ở Tây hồ, Hàng Châu杭州, TH.

12- Nhất mạt 一抹 = nhất phiến 一片: một phiến, một tấm.

13- Vi khúc 韋曲:  địa danh. Vào đời Đường , ở phía nam thành Trường An  長安 có gia đình quý tộc họ Vi 韋 sinh sống ở đây qua nhiều thế đại vì vậy mang tên Vi Khúc.   

14- Tà Xuyên 斜川: tên đất, là một thắng cảnh nằm bên cạnh thị trấn Tinh Tử  星子thuộc tỉnh Giang Tây 江西, TH.   

15- Âu biên 鷗邊: Theo sách “Quốc Ngữ Từ Điển Giản Biên Bản 國語辭典簡編本” của Lý Tiển 李鍌 ở Đài Loan 台灣 thì chữ “Âu Biên” có nghĩa là thủy biên 水邊 = bên bờ nước. Trong bài này, chữ âu biên ngụ ý nói vì sầu muộn mà đầu bạc như lông chim sa âu 沙鷗. Dẫn chứng là trong một bài từ Bồ tát man 菩薩蠻 của Tân Khí Tật 辛棄疾 có câu:  

 

拍手笑沙鷗,Phách thủ tiếu sa âu, Vỗ tay cười chim sa âu,

一身都是愁。Nhất thân đô thị sầu. Toàn thân đều (trắng như) là sầu muộn.

   

16- Sinh ca 笙歌: sênh ca, tấu nhạc và ca hát, đàn hát. Sinh ca mộng 笙歌夢:  mơ đến những ngày đàn hát vui vẻ, mơ đến những ngày vui xưa.

17- Trùng môn 重門: cửa đôi.

18- Nhàn miên 閒眠: giấc ngủ, giấc ngủ không bị quấy nhiễu. Mượn chữ của Bạch Cư Dị 白居易 trong bài thơ “Nhàn miên 閑眠”:

 

暖牀斜臥日曛腰,Noãn sàng tà ngọa nhật huân yêu,

一覺閑眠百病銷。Nhất giáo nhàn miên bách bệnh tiêu. 

Nằm nghiêng trên giường ấm ánh nắng chiều chiếu eo,

Một giấc ngủ an lành trăm bệnh tiêu tan.

 

19- Đề quyên 啼鵑: chim cuốc kêu.

 

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: Cảm tưởng mùa xuân ở Tây Hồ.

Chim oanh làm tổ trong lá cây um tùm,

(Nước hồ) phẳng lặng, nhánh dương liễu xoắn với nhau,

Lúc hoàng hôn thuyền quay về nơi Đoạn Kiều.

(Còn) có thể đi chơi xuân được mấy lần? (vì xuân sắp hết)

(Muốn) xem hoa lại (phải chờ) sang năm.

Gió xuân hãy làm bạn với hoa tường vi,

Chờ khi hoa tường vi nở, mùa xuân đã (thoi thóp đến) đáng thương.

Càng thê lương (là), vạn cây xanh ở Tây Linh…

(Chỉ còn là) một phiến khói sương hoang dã.

 

Những chim yến năm xưa (ở đây) nay về đâu?

Chỉ (thấy) rêu xanh phủ dầy chốn hào môn cư sở,

Cỏ mọc tràn lan nơi thắng cảnh xưa.

Thấy nói đến cái sầu mới (này),

Như nay cũng đến với cả chim sa âu.

(Tôi) không có lòng nào nối lại giấc mộng hoan lạc xưa,

(Mà) đóng kín cửa nhà, (Nhâm nhi) chút rượu say ngủ một giấc an nhàn.

Chớ vén màn cửa, (tôi) sợ nhìn thấy hoa tàn bay bay,

Sợ nghe thấy tiếng chim cuốc kêu (bi thiết) (nhớ nước cũ mà đau lòng).  

 

Phỏng Dịch

 

1 Cao Dương Đài – Tây Hồ Xuân Cảm

 

Lá nối chim oanh,

Hồ yên liễu cuốn,

Thuyền về cầu Đoạn chiều tà,    

Còn mấy du xuân?

Sang năm mới lại xem hoa.

Gió xuân hãy bạn tường vi ấy,

Đến tường vi, xuân đã mờ nhòa.

Càng thê lương, lục sắc Tây Linh,

Một phiến sương sa.

 

Năm xưa cánh én về đâu đó?

Lớp rêu xanh lầu các,

Cỏ ám quê nhà.

Thấy nói tân sầu,

Ngày nay đến cả cò ta.

Lòng nào nối tiếp đàn ca mộng,

Cửa cài then, giấc ngủ say ngà.

Hãy buông rèm, sợ thấy hoa bay,

Sợ cuốc kêu ca.

 

2 Tây Hồ Xuân Cảm

 

Lá dầy xây tổ chim oanh,

Nước hồ phẳng lặng xoắn cành liễu dương.

Thuyền về cầu Đoạn tà dương,

Chơi xuân còn được lên hương mấy lần?

 

Sang năm đợi ngắm hoa xuân,

Gió xuân xin hãy bạn gần tường vi.

Tường vi hoa nở đến kỳ,

Ngày xuân thương cảm buồn vì tàn nhanh.

 

Càng thê thảm vạn cây xanh,

Khói hoang một phiến Tây Linh đượm mầu.

Năm xưa chim yến nay đâu?

Lớp rêu dầy phủ ngập lầu phồn hoa.

 

Tà Xuyên cỏ ám mọi nhà,

Thấy rằng sầu mới như là chim âu.

Sênh ca mộng, không lòng nào,                                                   

Cửa đôi khép kín rượu vào ngủ yên.

 

Ai ơi xin chớ mở rèm,

Sợ nhìn hoa rụng trước thềm tung bay.

Sợ nghe chim cuốc hồn ngây,

Đau lòng nhớ nước đêm ngày than van.        

 

HHD 10-2024